Latest topics
Tìm kiếm
Statistics
Diễn Đàn hiện có 35 thành viênChúng ta cùng chào mừng thành viên mới đăng ký: dokimphuong
Tổng số bài viết đã gửi vào diễn đàn là 339 in 229 subjects
Thống Kê
Hiện có 27 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 27 Khách viếng thăm Không
Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 180 người, vào ngày 23/10/2024, 1:58 pm
Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền nam
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền nam
Trần Hữu Dũng
Nếu bạn theo dõi văn chương Việt Nam mấy năm gần đây, và nhất là nếu bạn sinh trưởng ở miền Nam, hẳn bạn đã biết Nguyễn Ngọc Tư. Cô là một nhà văn nữ, còn trẻ (sinh năm 1976), quê quán ở Cà Mau và hiện vẫn sống ở vùng đất Mũi. Năm 2000, tập truyện đầu tay Ngọn Đèn Không Tắt của cô được giải Sáng tác văn học tuổi 20 lần II của Hội Nhà văn TP HCM, và năm 2003 tập truyện Giao Thừa của cô cũng được một giải thưởng của Hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra cô còn là một khuôn mặt quen thuộc trên các tạp chí qua nhiều tạp văn, tạp bút.
Nguyễn Ngọc Tư, ngòi bút trẻ ấy, rõ ràng đã tạo được một chỗ đứng khu biệt cho mình. Nhiều người cho rằng cái độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư là sự chân chất mộc mạc tươm ra từ mỗi truyện cô viết. Đúng, và dưới đây sẽ nói thêm. Song, trước hết, cái đầu tiên làm người đọc choáng váng (cách thích thú), là nồng độ phương ngữ miền Nam trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Nếu bạn là người Nam, và nhất là nếu bạn đã xa quê hương lâu năm, thì chỉ những chữ mà Nguyễn Ngọc Tư dùng cũng đủ làm bạn sống lại những ngày thơ ấu xa xôi ấy. Từ vựng của Nguyễn Ngọc Tư không quý phái hay độc sáng (như của Mai Ninh chẳng hạn) nhưng, đối nghịch, đó là một từ vựng dân dã, lấy thẳng từ cuộc sống chung quanh. Sự phong phú của phương ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là tích tụ của một thính giác tinh nhạy và trọn vẹn: nghe và nhớ.
Nhiều người nghĩ rằng, nói chung, văn chương miền Nam (dù gì cũng là vùng đất mới) không thể so được với sự chỉn chu truyền thống của văn chương miền Trung, miền Bắc. Nguyễn Ngọc Tư sẽ làm những người đó phải nghĩ lại. Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư, họ sẽ khám phá rằng nếu dùng đúng chỗ, trong tay một tác giả cẩn trọng, phương ngữ mộc mạc miền Nam, giọng điệu dân dã miền Nam hoàn toàn có khả năng cấu tạo một nhánh văn chương đặc biệt, không giống, nhưng chuẩn mực không kém những miền khác Mỗi truyện viết của Nguyễn Ngọc Tư là một bửa ăn văn chương thịnh soạn, dọn bày chu đáo, gồm toàn đặc sản miệt vườn, với những vật liệu hảo hạng, tươi sống.
Đàng khác, hiển nhiên, cái bất lợi của một tác phẩm nhiều phương ngữ là nó khó được những người không quen với phương ngữ ấy cảm nhận hoàn toàn (và tất nhiên còn là thử thách khó hơn cho người muốn chuyển nó sang một ngôn ngữ khác). Đối với những độc giả này, tác phẩm ấy chỉ là một công trình gợi tò mò, hoặc hấp dẫn vì lý do khác, mà phương ngữ là một chướng ngại cảm nhận.
Song, nhìn kỹ, sự hấp dẫn của truyện Nguyễn Ngọc Tư không phải ở kho từ vựng miền Nam dồi dào của cô, nhưng ở chỗ sử dụng phương ngữ tối đa và đúng chỗ vào những câu chuyện thật “miền Nam”. Đó là miền Nam của tỉnh lẻ, của ruộng vườn, và nhất là của sông, của mưa (Dòng Nhớ, Chợ nổi Cà mau- chút tình sông nuớc, Qua cầu nhớ người, Nhớ sông, Nước chảy mây trôi). Đó là miền Nam đã thái bình nhưng vẫn còn dấu chiến tranh -- không ở sự điêu tàn vì bom đạn mà ở những vết thương trong đời người (Ngọn đèn không tắt, Mối tình năm cũ).
Trong cách chọn lựa tình tiết, cốt truyên, Nguyễn Ngọc Tư đã trung thành (một cách khó giải thích) với cái “tình tự” Nam bộ của quê hương cô. Chỉ những người sống và lớn lên ở một địa phương, thật sự mến yêu họ hàng làng xóm của mình, mới thể hiện tình tự với quê hương mình được như thế. Và, bởi ở đâu cũng có cái đặc thù, chính tính đặc thù lại là cái phổ quát nhất. Sự cá biệt của phương ngữ, khi được sử dụng để diễn đạt những tình tự phổ quát của con người, có khả năng vạch ra cái chung của cái riêng.
Câu nói của Vũ Hạnh về kịch miền Nam “Sự giản dị, thoải mái và hồn nhiên của kịch miền Nam đều hướng về đạo nghĩa” (khi ông phê bình Kim Cương), cũng có thể áp dụng cho văn xuôi miền Nam. Nguyển Ngọc Tư rất Nam như thế đó.
Văn của Nguyễn Ngọc Tư nghe như nhạc. Nhiều câu trong trẻo và buồn (nhưng không nghẹn ngào) như một bản vọng cổ hoài lang. Như cô viết: “tự dưng nghe buồn, nghe thất vọng quá trời đất” (Một mái nhà), nhưng hình như cô không muốn người khác buồn theo cô . Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng than vãn thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ, đứt ngang, nhưng rất đủ, của một người trẻ bổng nhiên phát giác những bất hạnh của cuộc đời, mà vẫn hi vọng. Văn Nguyễn Ngọc Tư là văn của lời nói. Cách ngắt câu của cô là cách ngắt của âm điệu. Cái tài của Nguyễn Ngọc Tư là đem những cảnh tượng rất bình thường, khoanh lại, biến nó thành châu báu “Cãi qua cãi lại, hai má con ngã ngửa ra, ủa, hơi đâu mà nói chuyện của người ta.” (Nhà cỗ)
Hồ Anh Thái, và vài người nữa, đã có khen “cách dẫn chuyện gọn gàng, sự cắt cảnh chuyển lớp chính xác” của Nguyễn Ngọc Tư, nhưng chưa thấy ai nói đến cấu trúc câu của cô. Mới và độc đáo. Lối bắt đầu với chữ Mà, rồi một dấu phẩy. Hoặc lối chen vào giữa câu một chi tiết trong ngoặc đơn: “Hai đứa tôi ngồi đâu đó (chỗ mà ai cũng nhìn thấy) nói chuyện chơi, có lúc, chẳng cần nói gì” (Nhà cỗ). Hoặc lối dứt câu bằng một thán từ có âm bổng: “Sao tự nhiên em qua đây lãng xẹt vậy không biết?” (Lý con sáo sang sông)
Nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư hay khóc, và nhiều lúc cô khuyến khích nhân vật của mình khóc.
“Mãi dì Thấm không mở lời nói được, chỉ khóc là khóc, nức nở ồ ồ, nhìn cảnh mọi người xúc động, hỉ mũi rột rẹt nhưng không ai bước ra dỗ cho dì nín. Cho đến khi ông Mười xuất hiện, ông bảo, “mấy chú làm ơn dừng lại một chút” rồi cầm cái khăn rằn lau nước mắt cho dì Thấm, dì như trẻ con, lau khô rồi nước mắt lại trào ra. Ông Mười vẫn nhẫn nại chậm chiếc khăn lên khuôn mặt chớm già của dì, không nói gì hết, khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại, dường như ông cũng đau lắm, xót lắm” (Mối tình năm cũ)
Hay là:
“Nhưng không phải buồn Phương lấy vợ, tôi buồn là vì chiều nay, Nhân Phủ đã sụp đổ trong lòng.
Rồi họ, và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi.” (Nhà cỗ)
Nhưng, để ý: cái khóc của Nguyễn Ngọc Tư là vì thương yêu, không vì oán giận. Không phải là cái khóc nghẹn ngào, day dứt, ủ rũ. Đây là cái khóc ào ào như cơn mưa miền Nam, và người đọc biết (hay mong mỏi) chỉ khoảnh khác thì mưa sẽ tạnh, nắng sẽ lên và nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sẽ quẹt nước mắt xông vai trở lại cuộc sống bận rộn của mình.
Chính vì Nguyễn Ngọc Tư còn trẻ, cô nhìn cuộc sống bằng cặp mắt trong sáng (khác với lạc quan) và trung thực. Cô không giả vờ dằn vặt nội tâm như nhiều nhà văn (không chỉ ở Việt Nam) ham đòi thời thượng. Nhưng Nguyễn Ngọc Tư không ngây thơ “chuyện đời”. Cô nhìn, cô nghe, cô biết hết. Nguyễn Ngọc Tư là một chứng nhân trung thực và tinh nhạy. Không phải chứng nhân cho những vụ việc hung hăng, thô bạo, nhưng cho những mảnh đời đơn dị, bình thường. (Truyện Nguyễn Ngọc Tư không có người lừa đão, không có kẻ sát nhân. Có lẽ trong truyện của cô cái tội lớn nhất là tội ... ngoại tình.) Nếu lúc gần đây truyện của Nguyễn Ngọc Tư có “buồn” hơn, ấy không phải vì mắt cô đã nhạt đi màu hồng (hãy mong thế), nhưng vì tầm nhìn của nó xa hơn và, trong quãng không gian mở rộng đó, cô thấy thêm những chuyện đời dang dở. Cô không buồn hơn, nhưng lọt vào mắt cô là những mảng đời buồn hơn.
Nhưng đừng tưởng Ngưyễn Ngọc Tư là người hời hợt. Quả vậy, những truyện – nhất là những truyện sau này – đều là về những mối tình không trọn. Chẳng phải đổ vỡ, nhưng không trọn. Những mối tình đó không phải chỉ của người già, mà còn là những mối tình của thế hệ cô (Ngổn ngang) – hay thứ tự phải ngược lại?. Nhìn cho kỹ, sự dang dở đó không phải lỗi của ai. Nguyễn Ngọc Tư chấp nhận nhưng không than oán, mà cũng không ra vẻ cứng rắn kiểu anh hùng rơm.
Những cặp “tình nhân” (tạm gọi) trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư không bao giờ hôn nhau (như cô sẽ hỏi: ai làm chuyện kỳ vậy?). Nhiều lắm, thì chỉ như:
“Quí mặc áo đứt mất tiêu cái nút trên, lồ lộ ra mảng ngực ráp nắng. Trong Đậm nhiều khi dậy lên một cái gì rưng rức khó tả, chỉ mong nép đầu vào đó để quên nhọc nhằn, để quên nỗi cô độc lùi lũi trong đời.”(Giao thừa)
Hay là:
“Nó ngồi sau lưng thầy ... mà lòng nghe dịu ngọt lạ thường, chợt nghe thèm đến rớt nước mắt được nép mặt vào lưng, được choàng tay ôm eo thầy.”(Nước chảy mây trôi)
Phần nào, sự chuyên biệt của Nguyễn Ngọc Tư vào những truyện loại này có thể làm người đọc lo ngại. Chằng lẽ nghiệp văn của cô sẽ khoanh trong thể loại những mối tình không trọn, những ký sự đồng quê? Quả là Nguyễn Ngọc Tư có tài thiên phú, cô viết rất nhanh, rất khoẻ (trong vòng ba năm đã ra bốn tập truyện ngắn). Nhưng cái đáng lo là chỗ đó. Người ta bắt đầu thấy quá quen thuộc với truyện của cô. Chúng na ná như nhau, và dù rằng mỗi truyện vẫn đáng đọc, vẫn cho người đọc những giờ phút thú vị, nhưng sao ấy, chúng không còn để lại cái ấn tượng sâu đậm của những truyện mấy năm đầu. Đến lúc nào đó, nhà văn không thể chỉ sử dụng cái thiên bẩm của mình. Nhà văn phải đổ mồ hôi, xót con mắt, lã ngón tay (hay cho độc giả cảm tưởng ấy). Sự quanh quẩn trong những không gian, hoàn cảnh quen thuộc có thể là cái chớp đèn vàng (nhưng chưa đỏ) trên con đường văn chương của Nguyễn Ngọc Tư.
Nhiều người so sánh cô với Sơn Nam. Nhưng Sơn Nam là người viết ký sự giỏi, hầu như là nhà nghiên cứu, nhà dân giả học chuyên nghiệp. Nguyễn Ngọc Tư không như vậy, cô là nhà văn chuyên môn. Những cây bút khác ở miền Nam liền trước Nguyễn Ngọc Tư (như Lê Văn Thảo, Nguyễn Quang Sáng) là thế hệ của chiến tranh dành độc lập. Tuy Nguyễn Ngọc Tư không phải mang nhiệm vụ (gánh nặng?) đó nữa, quá khứ ấy được cô đưa vào truyện một cách rất tự nhiên (Mối tình năm cũ, Ngọn đèn không tắt). Có lẽ Nguyễn Ngọc Tư không biết là chính cái trẻ của cô, cái tính “tỉnh nhỏ” của cô đã cho cô một lợi thế rất lớn. Đó là cô không bị hành trang của thế hệ trước làm nặng vai, hay bị ảnh hưởng của những người đi trước (trong thư riêng gởi một độc giả, Nguyễn Ngọc Tư cho biết chưa từng đọc Võ Phiến, chẳng hạn).
Một đặc điểm của Nguyễn Ngọc Tư là hình như cô đã chớm thấy sự khác biệt giữa cô – như một nhà văn – và những người khác (chẳng hạn như trong Một mái nhà, Nguyệt - người bạn không biết viết văn). Đây là một điềm tốt nhưng cũng là một dấu hiệu nguy hiểm. Tốt vì cô ý thức trách nhiệm (trong chừng mực nào đó) của mình, nhưng nguy hiểm vì nó có thể gây một tự giác quá độ về chỗ đứng của cô – như một nhà văn – đối với xã hội. Nhà văn, theo tôi nghĩ, vừa phải đứng trong vừa phải đứng ngoài dòng cuộc sống. Song Nguyễn Ngọc Tư lại có vẻ thành thật tiếc nuối cuộc sống bình dị của những người không viết văn. Đặt vấn đề cách khác, những nhà văn trẻ Việt Nam như Nguyễn Ngọc Tư, từ trước đến giờ vẫn sống với cái bẩm sinh của mình, sẽ ra sao khi biết được nhiều hơn về văn đàn (thế giới), khi ý thức hơn “nghề văn” của nhà văn? Đó là những câu hỏi lớn, định đoạt chỗ đứng tương lai của nhà văn đó trong khu vườn văn học.
Một cái “bệnh” của những người viết trẻ bây giờ là mặc cảm (hay đua đòi) phải dùng một bút pháp mới, mô tả xã hội tân thời (thường được xem như đồng nghĩa với lối sống thị thành), đôi khi phải làm ra vẻ biết nhiều, học rộng. Nguyễn Ngọc Tư không cần “làm dáng” kiểu ấy. Cái mới trong văn Nguyễn Ngọc Tư chính là cái cũ, cái lạ ở cô là tài khui mở những sinh hoạt thân thuộc trước mắt. Nguyễn Ngọc Tư không “vén màn” cho người đọc thấy cái chưa từng thấy, cô không dẫn dắt ta khám phá những ngõ ngách của nội tâm mà ta chưa từng biết (một điều cũng rất cần, nhưng để những nhà văn khác). Cô chỉ đưa ra một tấm gương rất trong, thật sáng, để chúng ta nhìn thấy những sinh hoạt, tình tự rất thường. Và qua đó, lạ thay, như một tiếng đàn cộng hưởng, ta khám phá cái phong phú của chính đời ta.
Tuổi trẻ của Nguyễn Ngọc Tư làm người đoc vừa mong đợi, vừa âu lo. Mong rằng tài năng của cô sẽ chín ra, sẽ lớn thêm. Nhưng lo rằng, với tuổi đời, giọng văn tươi mát đó sẽ không còn thích hơp với những đề tài có gam màu sậm hơn. (Nhưng khoảng cách hai năm, từ Ngọn Đèn Chưa Tắt sang Giao Thừa, sự tiến bộ của cô – đúng ra là sự thích ứng với kinh nghiệm sống của cô, buồn hơn, thâm thúy hơn – làm người đọc hi vọng.)
Chúng ta mong sự trưởng thành của Nguyễn Ngọc Tư sẽ là sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam. Ta mong cô sẽ tiếp tục là một người ghi chép chân thật những chuyển biến của đời sống dân tộc. Nếu cô làm được điều đó thì chúng ta thật cám ơn cô. Tài năng của cô đúng là thiên phú. Nguyễn Ngọc Tư là một đặc sản của miền nam.
Tiểu Hằng Ngôn
Dayton
25 - 1- 2004
Nếu bạn theo dõi văn chương Việt Nam mấy năm gần đây, và nhất là nếu bạn sinh trưởng ở miền Nam, hẳn bạn đã biết Nguyễn Ngọc Tư. Cô là một nhà văn nữ, còn trẻ (sinh năm 1976), quê quán ở Cà Mau và hiện vẫn sống ở vùng đất Mũi. Năm 2000, tập truyện đầu tay Ngọn Đèn Không Tắt của cô được giải Sáng tác văn học tuổi 20 lần II của Hội Nhà văn TP HCM, và năm 2003 tập truyện Giao Thừa của cô cũng được một giải thưởng của Hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra cô còn là một khuôn mặt quen thuộc trên các tạp chí qua nhiều tạp văn, tạp bút.
Nguyễn Ngọc Tư, ngòi bút trẻ ấy, rõ ràng đã tạo được một chỗ đứng khu biệt cho mình. Nhiều người cho rằng cái độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư là sự chân chất mộc mạc tươm ra từ mỗi truyện cô viết. Đúng, và dưới đây sẽ nói thêm. Song, trước hết, cái đầu tiên làm người đọc choáng váng (cách thích thú), là nồng độ phương ngữ miền Nam trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Nếu bạn là người Nam, và nhất là nếu bạn đã xa quê hương lâu năm, thì chỉ những chữ mà Nguyễn Ngọc Tư dùng cũng đủ làm bạn sống lại những ngày thơ ấu xa xôi ấy. Từ vựng của Nguyễn Ngọc Tư không quý phái hay độc sáng (như của Mai Ninh chẳng hạn) nhưng, đối nghịch, đó là một từ vựng dân dã, lấy thẳng từ cuộc sống chung quanh. Sự phong phú của phương ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là tích tụ của một thính giác tinh nhạy và trọn vẹn: nghe và nhớ.
Nhiều người nghĩ rằng, nói chung, văn chương miền Nam (dù gì cũng là vùng đất mới) không thể so được với sự chỉn chu truyền thống của văn chương miền Trung, miền Bắc. Nguyễn Ngọc Tư sẽ làm những người đó phải nghĩ lại. Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư, họ sẽ khám phá rằng nếu dùng đúng chỗ, trong tay một tác giả cẩn trọng, phương ngữ mộc mạc miền Nam, giọng điệu dân dã miền Nam hoàn toàn có khả năng cấu tạo một nhánh văn chương đặc biệt, không giống, nhưng chuẩn mực không kém những miền khác Mỗi truyện viết của Nguyễn Ngọc Tư là một bửa ăn văn chương thịnh soạn, dọn bày chu đáo, gồm toàn đặc sản miệt vườn, với những vật liệu hảo hạng, tươi sống.
Đàng khác, hiển nhiên, cái bất lợi của một tác phẩm nhiều phương ngữ là nó khó được những người không quen với phương ngữ ấy cảm nhận hoàn toàn (và tất nhiên còn là thử thách khó hơn cho người muốn chuyển nó sang một ngôn ngữ khác). Đối với những độc giả này, tác phẩm ấy chỉ là một công trình gợi tò mò, hoặc hấp dẫn vì lý do khác, mà phương ngữ là một chướng ngại cảm nhận.
Song, nhìn kỹ, sự hấp dẫn của truyện Nguyễn Ngọc Tư không phải ở kho từ vựng miền Nam dồi dào của cô, nhưng ở chỗ sử dụng phương ngữ tối đa và đúng chỗ vào những câu chuyện thật “miền Nam”. Đó là miền Nam của tỉnh lẻ, của ruộng vườn, và nhất là của sông, của mưa (Dòng Nhớ, Chợ nổi Cà mau- chút tình sông nuớc, Qua cầu nhớ người, Nhớ sông, Nước chảy mây trôi). Đó là miền Nam đã thái bình nhưng vẫn còn dấu chiến tranh -- không ở sự điêu tàn vì bom đạn mà ở những vết thương trong đời người (Ngọn đèn không tắt, Mối tình năm cũ).
Trong cách chọn lựa tình tiết, cốt truyên, Nguyễn Ngọc Tư đã trung thành (một cách khó giải thích) với cái “tình tự” Nam bộ của quê hương cô. Chỉ những người sống và lớn lên ở một địa phương, thật sự mến yêu họ hàng làng xóm của mình, mới thể hiện tình tự với quê hương mình được như thế. Và, bởi ở đâu cũng có cái đặc thù, chính tính đặc thù lại là cái phổ quát nhất. Sự cá biệt của phương ngữ, khi được sử dụng để diễn đạt những tình tự phổ quát của con người, có khả năng vạch ra cái chung của cái riêng.
Câu nói của Vũ Hạnh về kịch miền Nam “Sự giản dị, thoải mái và hồn nhiên của kịch miền Nam đều hướng về đạo nghĩa” (khi ông phê bình Kim Cương), cũng có thể áp dụng cho văn xuôi miền Nam. Nguyển Ngọc Tư rất Nam như thế đó.
Văn của Nguyễn Ngọc Tư nghe như nhạc. Nhiều câu trong trẻo và buồn (nhưng không nghẹn ngào) như một bản vọng cổ hoài lang. Như cô viết: “tự dưng nghe buồn, nghe thất vọng quá trời đất” (Một mái nhà), nhưng hình như cô không muốn người khác buồn theo cô . Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng than vãn thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ, đứt ngang, nhưng rất đủ, của một người trẻ bổng nhiên phát giác những bất hạnh của cuộc đời, mà vẫn hi vọng. Văn Nguyễn Ngọc Tư là văn của lời nói. Cách ngắt câu của cô là cách ngắt của âm điệu. Cái tài của Nguyễn Ngọc Tư là đem những cảnh tượng rất bình thường, khoanh lại, biến nó thành châu báu “Cãi qua cãi lại, hai má con ngã ngửa ra, ủa, hơi đâu mà nói chuyện của người ta.” (Nhà cỗ)
Hồ Anh Thái, và vài người nữa, đã có khen “cách dẫn chuyện gọn gàng, sự cắt cảnh chuyển lớp chính xác” của Nguyễn Ngọc Tư, nhưng chưa thấy ai nói đến cấu trúc câu của cô. Mới và độc đáo. Lối bắt đầu với chữ Mà, rồi một dấu phẩy. Hoặc lối chen vào giữa câu một chi tiết trong ngoặc đơn: “Hai đứa tôi ngồi đâu đó (chỗ mà ai cũng nhìn thấy) nói chuyện chơi, có lúc, chẳng cần nói gì” (Nhà cỗ). Hoặc lối dứt câu bằng một thán từ có âm bổng: “Sao tự nhiên em qua đây lãng xẹt vậy không biết?” (Lý con sáo sang sông)
Nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư hay khóc, và nhiều lúc cô khuyến khích nhân vật của mình khóc.
“Mãi dì Thấm không mở lời nói được, chỉ khóc là khóc, nức nở ồ ồ, nhìn cảnh mọi người xúc động, hỉ mũi rột rẹt nhưng không ai bước ra dỗ cho dì nín. Cho đến khi ông Mười xuất hiện, ông bảo, “mấy chú làm ơn dừng lại một chút” rồi cầm cái khăn rằn lau nước mắt cho dì Thấm, dì như trẻ con, lau khô rồi nước mắt lại trào ra. Ông Mười vẫn nhẫn nại chậm chiếc khăn lên khuôn mặt chớm già của dì, không nói gì hết, khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại, dường như ông cũng đau lắm, xót lắm” (Mối tình năm cũ)
Hay là:
“Nhưng không phải buồn Phương lấy vợ, tôi buồn là vì chiều nay, Nhân Phủ đã sụp đổ trong lòng.
Rồi họ, và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi.” (Nhà cỗ)
Nhưng, để ý: cái khóc của Nguyễn Ngọc Tư là vì thương yêu, không vì oán giận. Không phải là cái khóc nghẹn ngào, day dứt, ủ rũ. Đây là cái khóc ào ào như cơn mưa miền Nam, và người đọc biết (hay mong mỏi) chỉ khoảnh khác thì mưa sẽ tạnh, nắng sẽ lên và nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sẽ quẹt nước mắt xông vai trở lại cuộc sống bận rộn của mình.
Chính vì Nguyễn Ngọc Tư còn trẻ, cô nhìn cuộc sống bằng cặp mắt trong sáng (khác với lạc quan) và trung thực. Cô không giả vờ dằn vặt nội tâm như nhiều nhà văn (không chỉ ở Việt Nam) ham đòi thời thượng. Nhưng Nguyễn Ngọc Tư không ngây thơ “chuyện đời”. Cô nhìn, cô nghe, cô biết hết. Nguyễn Ngọc Tư là một chứng nhân trung thực và tinh nhạy. Không phải chứng nhân cho những vụ việc hung hăng, thô bạo, nhưng cho những mảnh đời đơn dị, bình thường. (Truyện Nguyễn Ngọc Tư không có người lừa đão, không có kẻ sát nhân. Có lẽ trong truyện của cô cái tội lớn nhất là tội ... ngoại tình.) Nếu lúc gần đây truyện của Nguyễn Ngọc Tư có “buồn” hơn, ấy không phải vì mắt cô đã nhạt đi màu hồng (hãy mong thế), nhưng vì tầm nhìn của nó xa hơn và, trong quãng không gian mở rộng đó, cô thấy thêm những chuyện đời dang dở. Cô không buồn hơn, nhưng lọt vào mắt cô là những mảng đời buồn hơn.
Nhưng đừng tưởng Ngưyễn Ngọc Tư là người hời hợt. Quả vậy, những truyện – nhất là những truyện sau này – đều là về những mối tình không trọn. Chẳng phải đổ vỡ, nhưng không trọn. Những mối tình đó không phải chỉ của người già, mà còn là những mối tình của thế hệ cô (Ngổn ngang) – hay thứ tự phải ngược lại?. Nhìn cho kỹ, sự dang dở đó không phải lỗi của ai. Nguyễn Ngọc Tư chấp nhận nhưng không than oán, mà cũng không ra vẻ cứng rắn kiểu anh hùng rơm.
Những cặp “tình nhân” (tạm gọi) trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư không bao giờ hôn nhau (như cô sẽ hỏi: ai làm chuyện kỳ vậy?). Nhiều lắm, thì chỉ như:
“Quí mặc áo đứt mất tiêu cái nút trên, lồ lộ ra mảng ngực ráp nắng. Trong Đậm nhiều khi dậy lên một cái gì rưng rức khó tả, chỉ mong nép đầu vào đó để quên nhọc nhằn, để quên nỗi cô độc lùi lũi trong đời.”(Giao thừa)
Hay là:
“Nó ngồi sau lưng thầy ... mà lòng nghe dịu ngọt lạ thường, chợt nghe thèm đến rớt nước mắt được nép mặt vào lưng, được choàng tay ôm eo thầy.”(Nước chảy mây trôi)
Phần nào, sự chuyên biệt của Nguyễn Ngọc Tư vào những truyện loại này có thể làm người đọc lo ngại. Chằng lẽ nghiệp văn của cô sẽ khoanh trong thể loại những mối tình không trọn, những ký sự đồng quê? Quả là Nguyễn Ngọc Tư có tài thiên phú, cô viết rất nhanh, rất khoẻ (trong vòng ba năm đã ra bốn tập truyện ngắn). Nhưng cái đáng lo là chỗ đó. Người ta bắt đầu thấy quá quen thuộc với truyện của cô. Chúng na ná như nhau, và dù rằng mỗi truyện vẫn đáng đọc, vẫn cho người đọc những giờ phút thú vị, nhưng sao ấy, chúng không còn để lại cái ấn tượng sâu đậm của những truyện mấy năm đầu. Đến lúc nào đó, nhà văn không thể chỉ sử dụng cái thiên bẩm của mình. Nhà văn phải đổ mồ hôi, xót con mắt, lã ngón tay (hay cho độc giả cảm tưởng ấy). Sự quanh quẩn trong những không gian, hoàn cảnh quen thuộc có thể là cái chớp đèn vàng (nhưng chưa đỏ) trên con đường văn chương của Nguyễn Ngọc Tư.
Nhiều người so sánh cô với Sơn Nam. Nhưng Sơn Nam là người viết ký sự giỏi, hầu như là nhà nghiên cứu, nhà dân giả học chuyên nghiệp. Nguyễn Ngọc Tư không như vậy, cô là nhà văn chuyên môn. Những cây bút khác ở miền Nam liền trước Nguyễn Ngọc Tư (như Lê Văn Thảo, Nguyễn Quang Sáng) là thế hệ của chiến tranh dành độc lập. Tuy Nguyễn Ngọc Tư không phải mang nhiệm vụ (gánh nặng?) đó nữa, quá khứ ấy được cô đưa vào truyện một cách rất tự nhiên (Mối tình năm cũ, Ngọn đèn không tắt). Có lẽ Nguyễn Ngọc Tư không biết là chính cái trẻ của cô, cái tính “tỉnh nhỏ” của cô đã cho cô một lợi thế rất lớn. Đó là cô không bị hành trang của thế hệ trước làm nặng vai, hay bị ảnh hưởng của những người đi trước (trong thư riêng gởi một độc giả, Nguyễn Ngọc Tư cho biết chưa từng đọc Võ Phiến, chẳng hạn).
Một đặc điểm của Nguyễn Ngọc Tư là hình như cô đã chớm thấy sự khác biệt giữa cô – như một nhà văn – và những người khác (chẳng hạn như trong Một mái nhà, Nguyệt - người bạn không biết viết văn). Đây là một điềm tốt nhưng cũng là một dấu hiệu nguy hiểm. Tốt vì cô ý thức trách nhiệm (trong chừng mực nào đó) của mình, nhưng nguy hiểm vì nó có thể gây một tự giác quá độ về chỗ đứng của cô – như một nhà văn – đối với xã hội. Nhà văn, theo tôi nghĩ, vừa phải đứng trong vừa phải đứng ngoài dòng cuộc sống. Song Nguyễn Ngọc Tư lại có vẻ thành thật tiếc nuối cuộc sống bình dị của những người không viết văn. Đặt vấn đề cách khác, những nhà văn trẻ Việt Nam như Nguyễn Ngọc Tư, từ trước đến giờ vẫn sống với cái bẩm sinh của mình, sẽ ra sao khi biết được nhiều hơn về văn đàn (thế giới), khi ý thức hơn “nghề văn” của nhà văn? Đó là những câu hỏi lớn, định đoạt chỗ đứng tương lai của nhà văn đó trong khu vườn văn học.
Một cái “bệnh” của những người viết trẻ bây giờ là mặc cảm (hay đua đòi) phải dùng một bút pháp mới, mô tả xã hội tân thời (thường được xem như đồng nghĩa với lối sống thị thành), đôi khi phải làm ra vẻ biết nhiều, học rộng. Nguyễn Ngọc Tư không cần “làm dáng” kiểu ấy. Cái mới trong văn Nguyễn Ngọc Tư chính là cái cũ, cái lạ ở cô là tài khui mở những sinh hoạt thân thuộc trước mắt. Nguyễn Ngọc Tư không “vén màn” cho người đọc thấy cái chưa từng thấy, cô không dẫn dắt ta khám phá những ngõ ngách của nội tâm mà ta chưa từng biết (một điều cũng rất cần, nhưng để những nhà văn khác). Cô chỉ đưa ra một tấm gương rất trong, thật sáng, để chúng ta nhìn thấy những sinh hoạt, tình tự rất thường. Và qua đó, lạ thay, như một tiếng đàn cộng hưởng, ta khám phá cái phong phú của chính đời ta.
Tuổi trẻ của Nguyễn Ngọc Tư làm người đoc vừa mong đợi, vừa âu lo. Mong rằng tài năng của cô sẽ chín ra, sẽ lớn thêm. Nhưng lo rằng, với tuổi đời, giọng văn tươi mát đó sẽ không còn thích hơp với những đề tài có gam màu sậm hơn. (Nhưng khoảng cách hai năm, từ Ngọn Đèn Chưa Tắt sang Giao Thừa, sự tiến bộ của cô – đúng ra là sự thích ứng với kinh nghiệm sống của cô, buồn hơn, thâm thúy hơn – làm người đọc hi vọng.)
Chúng ta mong sự trưởng thành của Nguyễn Ngọc Tư sẽ là sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam. Ta mong cô sẽ tiếp tục là một người ghi chép chân thật những chuyển biến của đời sống dân tộc. Nếu cô làm được điều đó thì chúng ta thật cám ơn cô. Tài năng của cô đúng là thiên phú. Nguyễn Ngọc Tư là một đặc sản của miền nam.
Tiểu Hằng Ngôn
Dayton
25 - 1- 2004
Có một tủ sách Nguyễn Ngọc Tư ở Mỹ
Huỳnh Kim thực hiện
Ở Mỹ, có một giáo sư kinh tế mê văn học nước nhà và yêu văn chương của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư . Ông đã lập trang web “Văn hóa & Giáo dục” (+), trong đó có hẳn một “tủ sách” Nguyễn Ngọc Tư. Sau đây là cuộc trao đổi với chủ nhân của “tủ sách” ấy, Giáo sư TRẦN HỮU DŨNG...
+ Thưa ông, khoa Kinh tế Đại học Wright State ở Mỹ là nơi làm việc của ông, còn trang web “Văn hóa & Giáo dục”, trong đó có “tủ sách” Nguyễn Ngọc Tư, có phải là một “cõi riêng” của ông?
- Giáo sư TRẦN HỮU DŨNG: Có thể nghĩ như vậy nhưng thú thật, khi làm trang đó tôi nghĩ trước tiên đến nhu cầu nghiên cứu, theo dõi văn chương VN của tôi. Tất nhiên, nhu cầu đó bắt nguồn từ cái “tình” của tôi đối với quê hương. Dần dà, trang đó ngày càng “dày thêm”, bạn bè hỏi thăm, rồi người này mách người kia. Bây giờ “khách khứa” hơi đông, tôi lại thấy có trách nhiệm chăm sóc nó như một ngôi nhà chung. Cũng hơi cực!
+ Có phải vì quê ông ở Mỹ Tho mà ông “cảm” được cái chất “đặc sản Nam bộ”, như ông nói, trong văn của Nguyễn Ngọc Tư?
- Chắc là như thế. Nhưng tôi nghĩ không chỉ là tôi cảm được cái “tính Nam bộ” của Nguyễn Ngọc Tư, và không phải chỉ cái tính Nam bộ của cô làm tôi quý mến, mà quan trọng hơn chính là cái tài thiên bẩm của cô. Tôi nghĩ miền nào cũng là may mắn nếu có được một nhà văn thể hiện được cái “chất” của địa phương mình như Nguyễn Ngọc Tư đã làm cho Nam bộ. Tôi luôn luôn cám ơn cô về điều đó.
+ Truyện của Nguyễn Ngọc Tư, qua trang web ấy, có là một “nhịp cầu tình cảm” giữa Việt kiều, nhất là trong giới trí thức, với quê hương?
- Tôi không nghĩ theo cách đó, nhưng qua những thư từ mà tôi nhận được (từ Sài Gòn, Cần Thơ, từ một thành phố nhỏ thuộc bang Iowa ở Mỹ, từ Montréal ở Canada, Munchen ở Đức, Paris ở Pháp, Sydney ở Úc...) tôi không thấy có sự khác nhau giữa Việt kiều và người trong nước ở những gì mà Nguyễn Ngọc Tư khơi dậy trong lòng họ.
Đến một chừng mực nào đó, ai cũng là xa quê hương làng xóm của mình (dù là chỉ từ Mỹ Tho lên Sài Gòn), ai cũng cảm thấy lòng dịu lại khi hồi tưởng về thời thơ ấu của mình (nhất là những người lớn lên ở thôn quê). Ai cũng thích nghe một câu chuyện hay, đọc những nhận xét tinh tế.
Trong văn chương Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta, khắp mọi phương trời, tìm lại được cái quê hương đích thực trong tâm tưởng, những tình tự ngủ quên trong lòng mình, những kỷ niệm mà mình tưởng như không ai chia sẻ.
+ Đầu tháng 8 vừa rồi, ông có chuyến công tác ở quê nhà và về Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư. Ông có thể kể một chút về kỷ niệm này?
- Chuyến đi ấy là một “cao điểm” của đời tôi. Xin cho tôi được ấp ủ nó cho riêng mình một thời gian và sẽ kể trong một dịp khác. Tôi chỉ xin nói sơ như vầy: cô Tư mà tôi gặp giống y chang cô Tư mà chúng ta đã biết qua các tạp văn của cô. Đó là một người phụ nữ rất trẻ, dung dị, chân thật, đảm đang và vui tính, vô cùng thực tế dù được trời cho một sự rung cảm cực kì tinh nhạy và một tài năng sáng tác tuyệt vời.
+ Nửa ngày ở bên một nhà văn nữ 29 tuổi không sinh ra từ chiến tranh có làm cho một người chuyên tâm đến những vấn đề kinh tế toàn cầu như ông nghĩ ngợi về cuộc mưu sinh hàng ngày?
- Trong công việc “kiếm cơm” của tôi, đề tài nghiên cứu chính bao giờ cũng là sự bất quân bình giữa nước nghèo và nước giàu, và những đãi ngộ không tương xứng đối với những người đóng góp thật sự cho phúc lợi của nhân loại.
Đời sống của Nguyễn Ngọc Tư mà tôi được biết (và của đại đa số những nhà văn, nhà thơ khác, không phải chỉ ở nước ta mà hầu như cả thế giới) nếu có gợi lên điều gì trong tôi thì trước hết chắc chắn phải là một sự “phẫn uất” về sự trái khoáy trong cách đãi ngộ đó.
Mặt khác, tôi cũng cảm nhận rõ hơn sự kì diệu của tiến bộ thông tin ngày nay: nếu không có Internet thì chắc còn lâu tôi mới đọc được văn Nguyễn Ngọc Tư, còn lâu những người yêu thích văn Nguyễn Ngọc Tư mới có thể trở về (trong tâm tưởng) với quê hương mình.
+ Theo ông, văn Nguyễn Ngọc Tư sẽ hòa mình với thế giới này như thế nào?
- Một điều vẫn làm tôi áy náy là với khả năng phương ngữ dồi dào, văn Nguyễn Ngọc Tư rất khó dịch. Tôi ước chi mình có tài hơn để làm việc ấy. Nhưng tôi lại nghĩ: tại sao lại phải dịch văn Nguyễn Ngọc Tư ra tiếng nước ngoài? Tại sao không nói với người nước ngoài rằng chúng ta có một nhà văn tuyệt vời là Nguyễn Ngọc Tư (và nhiều người khác nữa), nhưng muốn thưởng thức trọn vẹn (và đó sẽ là diễm phúc cho anh, tin tôi đi!) thì anh phải... học tiếng Việt! Như vậy có phải là hợp lý hơn không?
Theo Báo Cần Thơ
Ở Mỹ, có một giáo sư kinh tế mê văn học nước nhà và yêu văn chương của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư . Ông đã lập trang web “Văn hóa & Giáo dục” (+), trong đó có hẳn một “tủ sách” Nguyễn Ngọc Tư. Sau đây là cuộc trao đổi với chủ nhân của “tủ sách” ấy, Giáo sư TRẦN HỮU DŨNG...
+ Thưa ông, khoa Kinh tế Đại học Wright State ở Mỹ là nơi làm việc của ông, còn trang web “Văn hóa & Giáo dục”, trong đó có “tủ sách” Nguyễn Ngọc Tư, có phải là một “cõi riêng” của ông?
- Giáo sư TRẦN HỮU DŨNG: Có thể nghĩ như vậy nhưng thú thật, khi làm trang đó tôi nghĩ trước tiên đến nhu cầu nghiên cứu, theo dõi văn chương VN của tôi. Tất nhiên, nhu cầu đó bắt nguồn từ cái “tình” của tôi đối với quê hương. Dần dà, trang đó ngày càng “dày thêm”, bạn bè hỏi thăm, rồi người này mách người kia. Bây giờ “khách khứa” hơi đông, tôi lại thấy có trách nhiệm chăm sóc nó như một ngôi nhà chung. Cũng hơi cực!
+ Có phải vì quê ông ở Mỹ Tho mà ông “cảm” được cái chất “đặc sản Nam bộ”, như ông nói, trong văn của Nguyễn Ngọc Tư?
- Chắc là như thế. Nhưng tôi nghĩ không chỉ là tôi cảm được cái “tính Nam bộ” của Nguyễn Ngọc Tư, và không phải chỉ cái tính Nam bộ của cô làm tôi quý mến, mà quan trọng hơn chính là cái tài thiên bẩm của cô. Tôi nghĩ miền nào cũng là may mắn nếu có được một nhà văn thể hiện được cái “chất” của địa phương mình như Nguyễn Ngọc Tư đã làm cho Nam bộ. Tôi luôn luôn cám ơn cô về điều đó.
+ Truyện của Nguyễn Ngọc Tư, qua trang web ấy, có là một “nhịp cầu tình cảm” giữa Việt kiều, nhất là trong giới trí thức, với quê hương?
- Tôi không nghĩ theo cách đó, nhưng qua những thư từ mà tôi nhận được (từ Sài Gòn, Cần Thơ, từ một thành phố nhỏ thuộc bang Iowa ở Mỹ, từ Montréal ở Canada, Munchen ở Đức, Paris ở Pháp, Sydney ở Úc...) tôi không thấy có sự khác nhau giữa Việt kiều và người trong nước ở những gì mà Nguyễn Ngọc Tư khơi dậy trong lòng họ.
Đến một chừng mực nào đó, ai cũng là xa quê hương làng xóm của mình (dù là chỉ từ Mỹ Tho lên Sài Gòn), ai cũng cảm thấy lòng dịu lại khi hồi tưởng về thời thơ ấu của mình (nhất là những người lớn lên ở thôn quê). Ai cũng thích nghe một câu chuyện hay, đọc những nhận xét tinh tế.
Trong văn chương Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta, khắp mọi phương trời, tìm lại được cái quê hương đích thực trong tâm tưởng, những tình tự ngủ quên trong lòng mình, những kỷ niệm mà mình tưởng như không ai chia sẻ.
+ Đầu tháng 8 vừa rồi, ông có chuyến công tác ở quê nhà và về Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư. Ông có thể kể một chút về kỷ niệm này?
- Chuyến đi ấy là một “cao điểm” của đời tôi. Xin cho tôi được ấp ủ nó cho riêng mình một thời gian và sẽ kể trong một dịp khác. Tôi chỉ xin nói sơ như vầy: cô Tư mà tôi gặp giống y chang cô Tư mà chúng ta đã biết qua các tạp văn của cô. Đó là một người phụ nữ rất trẻ, dung dị, chân thật, đảm đang và vui tính, vô cùng thực tế dù được trời cho một sự rung cảm cực kì tinh nhạy và một tài năng sáng tác tuyệt vời.
+ Nửa ngày ở bên một nhà văn nữ 29 tuổi không sinh ra từ chiến tranh có làm cho một người chuyên tâm đến những vấn đề kinh tế toàn cầu như ông nghĩ ngợi về cuộc mưu sinh hàng ngày?
- Trong công việc “kiếm cơm” của tôi, đề tài nghiên cứu chính bao giờ cũng là sự bất quân bình giữa nước nghèo và nước giàu, và những đãi ngộ không tương xứng đối với những người đóng góp thật sự cho phúc lợi của nhân loại.
Đời sống của Nguyễn Ngọc Tư mà tôi được biết (và của đại đa số những nhà văn, nhà thơ khác, không phải chỉ ở nước ta mà hầu như cả thế giới) nếu có gợi lên điều gì trong tôi thì trước hết chắc chắn phải là một sự “phẫn uất” về sự trái khoáy trong cách đãi ngộ đó.
Mặt khác, tôi cũng cảm nhận rõ hơn sự kì diệu của tiến bộ thông tin ngày nay: nếu không có Internet thì chắc còn lâu tôi mới đọc được văn Nguyễn Ngọc Tư, còn lâu những người yêu thích văn Nguyễn Ngọc Tư mới có thể trở về (trong tâm tưởng) với quê hương mình.
+ Theo ông, văn Nguyễn Ngọc Tư sẽ hòa mình với thế giới này như thế nào?
- Một điều vẫn làm tôi áy náy là với khả năng phương ngữ dồi dào, văn Nguyễn Ngọc Tư rất khó dịch. Tôi ước chi mình có tài hơn để làm việc ấy. Nhưng tôi lại nghĩ: tại sao lại phải dịch văn Nguyễn Ngọc Tư ra tiếng nước ngoài? Tại sao không nói với người nước ngoài rằng chúng ta có một nhà văn tuyệt vời là Nguyễn Ngọc Tư (và nhiều người khác nữa), nhưng muốn thưởng thức trọn vẹn (và đó sẽ là diễm phúc cho anh, tin tôi đi!) thì anh phải... học tiếng Việt! Như vậy có phải là hợp lý hơn không?
Theo Báo Cần Thơ
Về Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư
Bút ký
Trần Hữu Dũng
Trước rạng đông một ngày đầu tháng tám, tôi lên một chiếc xe van chín chỗ, từ Sài Gòn về Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư. Nhưng tôi sẽ không kể lại từng phút giây của hai ngày đáng nhớ ấy (hôm đó và hôm sau) mà tôi gặp Tư và gia đình cô ở Cà Mau, bởi vì cuộc hành trình này (như bây giờ tôi nhận ra) không chỉ là non mười một tiếng đồng hồ ngồi xe về đất Mũi, nhưng là một chuyến trở về “quê thật”của tôi. Quê ấy chẳng phải là một nơi nào đó trên bản đồ địa lý, nhưng là một vùng tâm tưởng của một người đã ra đi hơn bốn chục năm trời. Và gặp Tư không phải vì tò mò về một tác giả mà tôi đã đọc nhiều và yêu thích, nhưng để hình tượng hoá khung cảnh sản sinh những tác phẩm có sức rung cảm tuyệt vời của một nhà văn mà tôi đã gọi là “đặc sản miền Nam”.
Xe chuyển bánh từ giữa lòng bóng tối, loà nhoà ánh đèn vàng của Sài Gòn còn ngái ngủ, vào ngoại ô trong sương lúc bình minh, qua những địa danh quen thuộc của tuổi trẻ tôi: Bến Lức, Tân An, Ngả ba Trung Lương, Cái Bè, Cai Lậy, Cầu Mỹ Thuận, Vĩnh Long (chẳng biết người tôi quen hơn bốn mươi năm trước bây giờ ở đâu?), Cần Thơ, và những nơi có thể tôi đã qua nhưng không còn nhớ: Sóc Trăng, Bạc Liêu. Càng xa Sài Gòn, đường càng xấu, khủng khiếp nhất là đoạn từ Bạc Liêu đến Cà Mau. Và rồi khoảng ba giờ chiều hôm ấy, dưới ánh nắng vừa hực lại sau một thoáng mưa to, bên vệ đường vào thị xã Cà Mau, một người trẻ (tôi còn nhớ đã thốt thầm: trời, sao trẻ vậy!) như nữ sinh trung học, quay xe Dream ngừng lại cúi chào tôi. Nguyễn Ngọc Tư.
Suốt buổi chiều hôm ấy tôi trò chuyện nhiều với Tư, dùng cơm tối với Tư và ba Tư. Sáng hôm sau đi ăn cháo cá với Tư (và, cao điểm của đời tôi: được Nguyễn Ngọc Tư chở Honda vòng quanh thị xã Cà Mau), về nhà (cũng là cửa hàng) của vợ chổng Tư, lại nhà ba má Tư ăn trưa với cả gia đình. Rồi chia tay, tôi trở lại thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi sẽ không nói về Tư nhiều hơn nữa bởi vì, tôi phát giác, Nguyễn Ngọc Tư mà tôi gặp chính là Nguyễn Ngọc Tư mà mọi người đều có thể biết rõ qua các bút ký của cô,và Cà Mau mà tôi đến là Cà Mau trong tất cả những gì Tư viết.
Đó là môt người phụ nữ rất trẻ, dung dị, bình thường, nhưng kiên cường và bản lĩnh. Tư sống gần ba má, anh chị. Từ thế hệ nội, ngoại, cả gia đình của Tư đều là bộ đội trong chiến tranh chống Mỹ. Chị và anh của Tư sinh ra trong chiến khu trước hoà bình, còn Tư thì sinh ra ở Bạc Liêu (năm 1976, nhưng không ai nhớ ngày nào, chỉ nhớ đêm ấy trời không trăng, tối mịt) rồi về sống ở Cà Mau từ hồi bốn tuổi. Ngoài đời, Nguyễn Ngọc Tư mà tôi đã gặp rõ ràng là Tư của Lời cho má, Sân nhà, Tắm sông, Chơi một mình, Một mái nhà, Nguyệt – Người bạn không biết viết văn, Cửa sau. Và Cà Mau mà tôi thấy chính là chợ (hãy đọc lại Chợ nổi Cà Mau, -- chút tình sông nước), là sông, là xóm làng (Đất Mũi mù xa, Nhớ đất, Tháng Chạp ở rạch Bộ Tời) trong bút ký Nguyễn Ngọc Tư.
Song tôi phải nói, đến Cà Mau, tôi mới thấy rõ hơn sự gắn bó của Nguyễn Ngọc Tư với con người, với đời sống, với đất nước quanh cô. Bối cảnh gia đình cho Nguyễn Ngọc Tư một cái nhìn mà tôi ít thấy ở ai khác. Đó là cái nhìn thật trưởng thành nhưng của một người rất trẻ, đó là cái nhìn của kẻ đã sống qua máu lửa, chứng kiến lắm đau thương, nhưng với con mắt vô tư của một người sinh ra khi đã hết chiến tranh. Đó là cái nhìn của một gia đình chân chất và trầm lặng, hãnh diện đã làm tròn nhiệm vụ đấu tranh cho đất nước, không chút nghi ngờ tương lai của dân tộc, nhưng chẳng có ảo tưởng nào về những mặt bất toàn của hiện tại. Đó là những người bị thiên tai liên miên vùi vập (Chờ đợi những mùa tôm, Đi qua những cơn bão khô, Ngậm ngùi Hưng Mỹ), nhưng bao giờ rồi cũng đứng lên và xây dựng lại. Đó là những người nặng tình với công lý, song không phải là thứ công lý khô khan, quyết liệt của kẻ bị áp bức, bốc lột thời bị trị, mà là thứ công lý đầy nhân ái, giận nhưng không oán, trách nhưng không thù (Mơ hết, Kính thưa anh nhà báo, Làm cho biết, Tản mạn quanh … cái cổng).
Và, đến Cà Mau, tận mắt nhìn sông, nhìn chợ, tận tai nghe tiếng gà gáy sớm, tiếng máy ghe bình bịch sau nhà Tư, rồi nhớ lại những bút ký của Tư (mà hầu như tôi nhớ hết!), tôi thêm một ý nghĩ: nếu là nhà làm phim, Nguyễn Ngọc Tư sẽ rất tài tình. Bạn hãy đọc, hoặc đọc lại, một sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư (tỉ như Mối tình năm cũ), rồi trả lời giùm: đó là phim hay truyện? Những chi tiết trong đó làm người đọc thẩn thờ, nhưng sao ấy, chúng không tủn mủn tẩn mẩn, mà sáng và vui. Cái nhìn của cô trong Chợ nổi đúng là một cái nhìn “điện ảnh”: những gam màu thật tươi, những “cận ảnh” bất ngờ, song đôi mắt nhà văn ấy không bị vướng cái rè rè cơ động, cái xoay chuyển chậm chạp của máy quay phim, mà gần hơn với cái tung tăng của một con bướm nhỏ. Cảnh và người, lạ mà thân, xa mà gần, náo hoạt mà tĩnh yên, và đầy lòng thương mến. Nguyễn Ngọc Tư cho biết cô hay nghe nhạc khi viết, và tôi không ngạc nhiên. Đúng là văn của cô nghe như nhạc. Nhiều truyện của cô gần như một bài vọng cỗ (hay một thứ ballad, nếu nói cách kiêu kì) hơn bất cứ gì khác. Và, như bài vọng cỗ, chúng thường là những chuyện buồn, đôi khi rất buồn, kết thúc bằng một nốt trầm, một sự lửng lơ.
Có thể hình dung phần lớn cuốn-phim-bút-ký của Nguyễn Ngọc Tư như một con thuyền vượt sóng: một bên là những rộn ràng sống động của sinh hoạt đời thường, một bên là những đòi hỏi (rất nghiêm trang và chính đáng) cho công lý. Nguyễn Ngọc Tư là tiêu biểu của thế hệ Việt Nam mới, sinh ra sau thống nhất, trong thanh bình, nhưng luôn quý trọng những hi sinh, và hãnh diện chấp nhận kế thừa những người mang lại thống nhất và thanh bình ấy. Hãnh diện với quá khứ và xông vai tiếp tục đi tới. Những người như Nguyễn Ngọc Tư cực khổ mà không than phiền. Đâu đó trong nụ cuời e thẹn (và rất xinh!) của cô là sự trong sáng của một tuổi trẻ hãy còn đây. Ở Nguyễn Ngọc Tư là phong cách ngoan hiền nhưng kiên quyết, cuộc sống giản đơn nhưng thấp thoáng một nội tâm phức tạp và bí ẩn (những lúc cô chợt im lặng giữa câu chuyện, con mắt trở nên đăm chiêu, làm tôi giật mình). Nguyễn Ngọc Tư thường ví truyện của mình như trái sầu riêng: nhiều người rất thích nhưng cũng có người (“đáng thương thay!”, tôi nói) lại dị ứng. Tôi đã cự với Tư về cách ví von này bởi vì, theo tôi, văn của Tư không chỉ là một trái này hay quả nọ, mà là cả hàng chục, hàng trăm loại trái cây, hoa quả. Nhìn cảnh chợ Cà Mau, tôi tin là tôi đúng hơn Tư. Xin lỗi nha Tư!
Tôi hỏi Nguyễn Ngọc Tư có cảm thấy cô lập trong đời văn không (nhớ rằng Cà Mau dù gì cũng là hơi xa đông đảo những người viết khác) thì Tư lại bảo nếu không còn làm ở chỗ hiện tại (Hội Văn Học Nghệ Thuật Cà Mau) cô muốn sẽ về công tác ở một Hội Nông Dân ở vùng xa, vùng sâu hơn nữa, nơi không ai sẽ biết cô là nhà văn nhà báo (ít ra trong vài tháng đầu, cô nói đùa) để cô biết thêm về đời sống của họ. Nguyễn Ngọc Tư là như thế đấy.
Khi trao tặng Tư một quyển biên khảo mà tôi có tham gia, nhìn tay cô loáng thoáng lật nhanh trang giấy, tôi chợt nhớ chỉ vài năm trước đây chính bàn tay nhanh nhẹn ấy còn hái rau để má đem ra chợ bán mỗi sáng. Bàn tay hái rau, nấu cơm, rồi lật sách và cầm bút! Những chuyển biến gần như huyền thoại của một phụ nữ đảm đang, một tài năng thiên phú. Có điều tôi hơi hổ thẹn là ngồi với Tư, tôi lại nói nhiều hơn Tư! Nếu tôi là người nổi tiếng thì Tư có thể viết một bút ký “Gặp Trần Hữu Dũng ở Cà Mau” tiết lộ những “tâm sự” của tôi, chắc tôi phải độn thổ!
Vậy bạn đừng quở tôi, nghe nói đi Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư mà sao không kể gì về Cà Mau, không kể gì về cô Tư hết vậy? Bởi vì, cà-mau ở đây chính là sự bình dị của hàng trăm tỉnh làng trên mọi miền đất nước. Những tỉnh làng không hoành tráng, không nhiều danh lam thắng cảnh, thưa khách tham quan, và nghèo, nhưng là cái nôi, cái nguồn của sức sống dân tộc. Bởi vì, nguyễn-ngọc-tư ở đây là hình ảnh một phụ nữ miền Nam như rất nhiều phụ nữ khác, không phải là một trong “mười khuôn mặt tiêu biểu năm 2003” (dù cô có là), một người đàn bà còn rất trẻ, không son phấn, bận bịu chồng con, chăm lo ba má, quần qưật công việc cơ quan, và sáng tác. Và chuyến đi Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư của tôi là một cuộc trở về (vì tôi đã lớn lên ở đó) với ruộng vườn miền Nam ruột thịt, một cuộc viếng thăm (vì lại phải ra đi) những đứa em, đứa cháu, những bà con và bè bạn (mới và cũ) đang sống nơi ấy, vui, buồn, gian nan và thành đạt, nhưng trong tất cả là khí tiết của quê hương.
Trần Hữu Dũng
Dayton 23/8/2005
*Bài đã đăng đầu tiên trên nguyệt san Diễn Đàn, số 154, tháng 9/2005, dưới bút hiệu Tiểu Hằng Ngôn.
Trần Hữu Dũng
Trước rạng đông một ngày đầu tháng tám, tôi lên một chiếc xe van chín chỗ, từ Sài Gòn về Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư. Nhưng tôi sẽ không kể lại từng phút giây của hai ngày đáng nhớ ấy (hôm đó và hôm sau) mà tôi gặp Tư và gia đình cô ở Cà Mau, bởi vì cuộc hành trình này (như bây giờ tôi nhận ra) không chỉ là non mười một tiếng đồng hồ ngồi xe về đất Mũi, nhưng là một chuyến trở về “quê thật”của tôi. Quê ấy chẳng phải là một nơi nào đó trên bản đồ địa lý, nhưng là một vùng tâm tưởng của một người đã ra đi hơn bốn chục năm trời. Và gặp Tư không phải vì tò mò về một tác giả mà tôi đã đọc nhiều và yêu thích, nhưng để hình tượng hoá khung cảnh sản sinh những tác phẩm có sức rung cảm tuyệt vời của một nhà văn mà tôi đã gọi là “đặc sản miền Nam”.
Xe chuyển bánh từ giữa lòng bóng tối, loà nhoà ánh đèn vàng của Sài Gòn còn ngái ngủ, vào ngoại ô trong sương lúc bình minh, qua những địa danh quen thuộc của tuổi trẻ tôi: Bến Lức, Tân An, Ngả ba Trung Lương, Cái Bè, Cai Lậy, Cầu Mỹ Thuận, Vĩnh Long (chẳng biết người tôi quen hơn bốn mươi năm trước bây giờ ở đâu?), Cần Thơ, và những nơi có thể tôi đã qua nhưng không còn nhớ: Sóc Trăng, Bạc Liêu. Càng xa Sài Gòn, đường càng xấu, khủng khiếp nhất là đoạn từ Bạc Liêu đến Cà Mau. Và rồi khoảng ba giờ chiều hôm ấy, dưới ánh nắng vừa hực lại sau một thoáng mưa to, bên vệ đường vào thị xã Cà Mau, một người trẻ (tôi còn nhớ đã thốt thầm: trời, sao trẻ vậy!) như nữ sinh trung học, quay xe Dream ngừng lại cúi chào tôi. Nguyễn Ngọc Tư.
Suốt buổi chiều hôm ấy tôi trò chuyện nhiều với Tư, dùng cơm tối với Tư và ba Tư. Sáng hôm sau đi ăn cháo cá với Tư (và, cao điểm của đời tôi: được Nguyễn Ngọc Tư chở Honda vòng quanh thị xã Cà Mau), về nhà (cũng là cửa hàng) của vợ chổng Tư, lại nhà ba má Tư ăn trưa với cả gia đình. Rồi chia tay, tôi trở lại thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi sẽ không nói về Tư nhiều hơn nữa bởi vì, tôi phát giác, Nguyễn Ngọc Tư mà tôi gặp chính là Nguyễn Ngọc Tư mà mọi người đều có thể biết rõ qua các bút ký của cô,và Cà Mau mà tôi đến là Cà Mau trong tất cả những gì Tư viết.
Đó là môt người phụ nữ rất trẻ, dung dị, bình thường, nhưng kiên cường và bản lĩnh. Tư sống gần ba má, anh chị. Từ thế hệ nội, ngoại, cả gia đình của Tư đều là bộ đội trong chiến tranh chống Mỹ. Chị và anh của Tư sinh ra trong chiến khu trước hoà bình, còn Tư thì sinh ra ở Bạc Liêu (năm 1976, nhưng không ai nhớ ngày nào, chỉ nhớ đêm ấy trời không trăng, tối mịt) rồi về sống ở Cà Mau từ hồi bốn tuổi. Ngoài đời, Nguyễn Ngọc Tư mà tôi đã gặp rõ ràng là Tư của Lời cho má, Sân nhà, Tắm sông, Chơi một mình, Một mái nhà, Nguyệt – Người bạn không biết viết văn, Cửa sau. Và Cà Mau mà tôi thấy chính là chợ (hãy đọc lại Chợ nổi Cà Mau, -- chút tình sông nước), là sông, là xóm làng (Đất Mũi mù xa, Nhớ đất, Tháng Chạp ở rạch Bộ Tời) trong bút ký Nguyễn Ngọc Tư.
Song tôi phải nói, đến Cà Mau, tôi mới thấy rõ hơn sự gắn bó của Nguyễn Ngọc Tư với con người, với đời sống, với đất nước quanh cô. Bối cảnh gia đình cho Nguyễn Ngọc Tư một cái nhìn mà tôi ít thấy ở ai khác. Đó là cái nhìn thật trưởng thành nhưng của một người rất trẻ, đó là cái nhìn của kẻ đã sống qua máu lửa, chứng kiến lắm đau thương, nhưng với con mắt vô tư của một người sinh ra khi đã hết chiến tranh. Đó là cái nhìn của một gia đình chân chất và trầm lặng, hãnh diện đã làm tròn nhiệm vụ đấu tranh cho đất nước, không chút nghi ngờ tương lai của dân tộc, nhưng chẳng có ảo tưởng nào về những mặt bất toàn của hiện tại. Đó là những người bị thiên tai liên miên vùi vập (Chờ đợi những mùa tôm, Đi qua những cơn bão khô, Ngậm ngùi Hưng Mỹ), nhưng bao giờ rồi cũng đứng lên và xây dựng lại. Đó là những người nặng tình với công lý, song không phải là thứ công lý khô khan, quyết liệt của kẻ bị áp bức, bốc lột thời bị trị, mà là thứ công lý đầy nhân ái, giận nhưng không oán, trách nhưng không thù (Mơ hết, Kính thưa anh nhà báo, Làm cho biết, Tản mạn quanh … cái cổng).
Và, đến Cà Mau, tận mắt nhìn sông, nhìn chợ, tận tai nghe tiếng gà gáy sớm, tiếng máy ghe bình bịch sau nhà Tư, rồi nhớ lại những bút ký của Tư (mà hầu như tôi nhớ hết!), tôi thêm một ý nghĩ: nếu là nhà làm phim, Nguyễn Ngọc Tư sẽ rất tài tình. Bạn hãy đọc, hoặc đọc lại, một sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư (tỉ như Mối tình năm cũ), rồi trả lời giùm: đó là phim hay truyện? Những chi tiết trong đó làm người đọc thẩn thờ, nhưng sao ấy, chúng không tủn mủn tẩn mẩn, mà sáng và vui. Cái nhìn của cô trong Chợ nổi đúng là một cái nhìn “điện ảnh”: những gam màu thật tươi, những “cận ảnh” bất ngờ, song đôi mắt nhà văn ấy không bị vướng cái rè rè cơ động, cái xoay chuyển chậm chạp của máy quay phim, mà gần hơn với cái tung tăng của một con bướm nhỏ. Cảnh và người, lạ mà thân, xa mà gần, náo hoạt mà tĩnh yên, và đầy lòng thương mến. Nguyễn Ngọc Tư cho biết cô hay nghe nhạc khi viết, và tôi không ngạc nhiên. Đúng là văn của cô nghe như nhạc. Nhiều truyện của cô gần như một bài vọng cỗ (hay một thứ ballad, nếu nói cách kiêu kì) hơn bất cứ gì khác. Và, như bài vọng cỗ, chúng thường là những chuyện buồn, đôi khi rất buồn, kết thúc bằng một nốt trầm, một sự lửng lơ.
Có thể hình dung phần lớn cuốn-phim-bút-ký của Nguyễn Ngọc Tư như một con thuyền vượt sóng: một bên là những rộn ràng sống động của sinh hoạt đời thường, một bên là những đòi hỏi (rất nghiêm trang và chính đáng) cho công lý. Nguyễn Ngọc Tư là tiêu biểu của thế hệ Việt Nam mới, sinh ra sau thống nhất, trong thanh bình, nhưng luôn quý trọng những hi sinh, và hãnh diện chấp nhận kế thừa những người mang lại thống nhất và thanh bình ấy. Hãnh diện với quá khứ và xông vai tiếp tục đi tới. Những người như Nguyễn Ngọc Tư cực khổ mà không than phiền. Đâu đó trong nụ cuời e thẹn (và rất xinh!) của cô là sự trong sáng của một tuổi trẻ hãy còn đây. Ở Nguyễn Ngọc Tư là phong cách ngoan hiền nhưng kiên quyết, cuộc sống giản đơn nhưng thấp thoáng một nội tâm phức tạp và bí ẩn (những lúc cô chợt im lặng giữa câu chuyện, con mắt trở nên đăm chiêu, làm tôi giật mình). Nguyễn Ngọc Tư thường ví truyện của mình như trái sầu riêng: nhiều người rất thích nhưng cũng có người (“đáng thương thay!”, tôi nói) lại dị ứng. Tôi đã cự với Tư về cách ví von này bởi vì, theo tôi, văn của Tư không chỉ là một trái này hay quả nọ, mà là cả hàng chục, hàng trăm loại trái cây, hoa quả. Nhìn cảnh chợ Cà Mau, tôi tin là tôi đúng hơn Tư. Xin lỗi nha Tư!
Tôi hỏi Nguyễn Ngọc Tư có cảm thấy cô lập trong đời văn không (nhớ rằng Cà Mau dù gì cũng là hơi xa đông đảo những người viết khác) thì Tư lại bảo nếu không còn làm ở chỗ hiện tại (Hội Văn Học Nghệ Thuật Cà Mau) cô muốn sẽ về công tác ở một Hội Nông Dân ở vùng xa, vùng sâu hơn nữa, nơi không ai sẽ biết cô là nhà văn nhà báo (ít ra trong vài tháng đầu, cô nói đùa) để cô biết thêm về đời sống của họ. Nguyễn Ngọc Tư là như thế đấy.
Khi trao tặng Tư một quyển biên khảo mà tôi có tham gia, nhìn tay cô loáng thoáng lật nhanh trang giấy, tôi chợt nhớ chỉ vài năm trước đây chính bàn tay nhanh nhẹn ấy còn hái rau để má đem ra chợ bán mỗi sáng. Bàn tay hái rau, nấu cơm, rồi lật sách và cầm bút! Những chuyển biến gần như huyền thoại của một phụ nữ đảm đang, một tài năng thiên phú. Có điều tôi hơi hổ thẹn là ngồi với Tư, tôi lại nói nhiều hơn Tư! Nếu tôi là người nổi tiếng thì Tư có thể viết một bút ký “Gặp Trần Hữu Dũng ở Cà Mau” tiết lộ những “tâm sự” của tôi, chắc tôi phải độn thổ!
Vậy bạn đừng quở tôi, nghe nói đi Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư mà sao không kể gì về Cà Mau, không kể gì về cô Tư hết vậy? Bởi vì, cà-mau ở đây chính là sự bình dị của hàng trăm tỉnh làng trên mọi miền đất nước. Những tỉnh làng không hoành tráng, không nhiều danh lam thắng cảnh, thưa khách tham quan, và nghèo, nhưng là cái nôi, cái nguồn của sức sống dân tộc. Bởi vì, nguyễn-ngọc-tư ở đây là hình ảnh một phụ nữ miền Nam như rất nhiều phụ nữ khác, không phải là một trong “mười khuôn mặt tiêu biểu năm 2003” (dù cô có là), một người đàn bà còn rất trẻ, không son phấn, bận bịu chồng con, chăm lo ba má, quần qưật công việc cơ quan, và sáng tác. Và chuyến đi Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư của tôi là một cuộc trở về (vì tôi đã lớn lên ở đó) với ruộng vườn miền Nam ruột thịt, một cuộc viếng thăm (vì lại phải ra đi) những đứa em, đứa cháu, những bà con và bè bạn (mới và cũ) đang sống nơi ấy, vui, buồn, gian nan và thành đạt, nhưng trong tất cả là khí tiết của quê hương.
Trần Hữu Dũng
Dayton 23/8/2005
*Bài đã đăng đầu tiên trên nguyệt san Diễn Đàn, số 154, tháng 9/2005, dưới bút hiệu Tiểu Hằng Ngôn.
Ngày đầu năm đọc 'Cánh đồng bất tận' với sức hút kỳ lạ
Nguyễn Tý
Báo Công An Thành phố Hồ Chí Minh
7 tháng 2, 2006
Đây là tập truyện thứ 7 của Nguyễn Ngọc Tư, ngay từ khi Cánh đồng bất tận xuất hiện trên tuần báo Văn Nghệ 4 kỳ liên tiếp đã tạo thành một hiệu ứng trong giới sáng tác. Có người cho rằng, Nguyễn Ngọc Tư đang thể nghiệm một phong cách sáng tác mới sau khi đã có nhiều truyện ngắn viết về miền Tây – nhất là về những thân phận người nghệ sĩ cũng như người phụ nữ ở tận cùng Đất Mũi, Cà Mau.
Cũng có người cho rằng, Tư (người viết quen gọi thân mật kiểu Nam bộ-NT) vẫn viết làng nhàng chỉ hơi thay đổi bút pháp, nghĩa là có đề cập đến khía cạnh dục tính mà một số cây bút trẻ nữ ở Hà thành đang gây xôn xao trên diễn đàn văn học gần đây.
Nói gì thì nói, sức bật để tự làm mới mình là điều Tư đáng được nhận lời khen. Không phải từ khi báo Tuổi Trẻ đăng đàn lại 6 kỳ liên tiếp Cánh đồng bất tận mới gây sự chú ý (trước đó trên mạng Evan của báo Điện tử Vnexpress.net đã đăng tải từ báo Văn Nghệ). Người viết bài này đọc được từ khi Tư đăng đàn nhưng chỉ được 2 số đầu vì những tưởng Tư cũng chỉ viết về thân phận người đàn bà bị ruồng bỏ, xã hội lại đẩy đưa số phận vào con đường tha hóa nhân cách, về người đàn ông bị vợ phụ tình, về hai đứa con lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình thương chỉ biết “tự học” cách để mà sống mà chứng kiến những bất công… cho đến khi đọc những lời bình luận miệng, tôi lại lần dở đọc tiếp và đúng là Tư có mới… thiệt.
Theo tôi, đọc văn của Nguyễn Ngọc Tư người đọc chỉ nên đọc một truyện rồi gấp sách lại, ngẫm nghĩ về nỗi đau thân phận người, thấu hiểu tâm trạng của nhân vật và một chút trải nghiệm của tác giả mới phần nào thấm thía cái giọng văn đặc sệt miền Tây (nghĩa là thấy sao nói vậy). Đó chính là nỗi đau đời mà dẫu vô tình hoặc cố ý khi xây dựng nhân vật, Tư tạo nên một phong cách không lẫn vào ai - ấy là chỗ văn Tư dễ đọng vào lòng người sau những giờ phút mệt nhọc với cuộc sống cơm áo gạo tiền, đọc thư giãn đọc nghiền ngẫm, ồ thật hay và tình làm sao ấy.
Về nhân vật, Tư đã dựng lên những thân phận người, ở đó số phận và bi kịch trong từng hoàn cảnh có nét tương đồng. Phần lớn những người phụ nữ gặp cảnh tréo ngeo trong duyên số, những anh chàng Hai Lúa yêu mà hổng dám ngỏ lời, những ông già cuối đời vẫn sống cô đơn và hơn nữa là biết chấp nhận. Chấp nhận để đồng cảm với những thân phận trẻ dầu chỉ thoáng chốc chung sống như tình cảm ruột thịt ở ông già Năm Nhỏ (Cải ơi!) hay ông Chín trong Nhớ sông đến cả người cha trong Cánh đồng bất tận – những người đàn ông chịu đựng và cảm thông ở ông Năm Nhỏ, ông Chín và ở người cha của hai đứa trẻ lại lặng im tìm cách ‘trả thù’ người vợ phụ tình trên thân xác những người phụ nữ nhẹ dạ cả tin khác…
Và những chàng thanh niên gặp những chị phụ nữ lỡ làng nên duyên vợ chồng trong Duyên phận so le, Một trái tim khô, Cuối mùa nhan sắc, Hiu hiu gió bấc, Mối tình năm cũ… đều có tình yêu thương của con người bằng đời mà đối xử “tử tế” (chữ dùng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn) với nhau, để cuối cùng là hạnh phúc nhưng ở từng trang viết của Tư lại có cái kết quá day dứt và hơi quá đời thật khi cái hậu của mỗi câu chuyện thường là dở dang, lận đận dù họ chỉ “một phút huy hoàng rồi chợt tắt”.
Và phải chăng từ truyện ngắn hay nói cho gần hơn đó là truyện vừa Cánh đồng bất tận, Tư mới để manh nha một chút cái ác có phần nhẫn tâm trong ba số phận của một hoàn cảnh: người cha (Út Vũ), Nương (chị gái) và Điền (em trai). Tôi cho rằng ấy cũng là tảng băng ngầm mà Tư giờ mới xuất tuyệt chiêu.
Viết về dục tính và viết sao cho khéo ấy là phong cách của mỗi nhà văn, Tư có cái đặc tả thật gần nhưng xa nói như ông bà ta đó là “nói bóng nói gió”.
Người cha và những người phụ nữ bị bỏ rơi trong 'Cánh đồng bất tận'
Phiên bản đầu tiên đó là hình ảnh người đàn bà bị đánh ghen và cũng thật tàn nhẫn từ hình ảnh Hoạn Thư ghen Thúy Kiều đến hiện thực đời thường xã hội, khi đàn bà ghen họ sẵn sàng rạch mặt bằng lưỡi lam hay tạt axít, sởn tóc… nay tôi mới thấy và lần đầu tiên có một cách trả thù ghen hơi ác “Người ta đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…”, và Tư cho nhân vật lý giải: “Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. Đọc thấy hơi rợn.
Người đàn bà ấy có chung số phận của nhiều người “Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê”, ai lại có cách nghĩ ngược như Tư. Bởi ngày ngày chúng ta chứng kiến những cô gái thôn quê có chút nhan sắc và đẹp nữa là khác nhưng kém chịu học “chạy” lên thành phố đua nhau lấy chồng Đài, chồng Hàn hay đổi đời bằng cách làm tiếp viên nhà hàng, khách sạn quán nhậu và gần nhất là gái gọi, gái đứng đường…
Phiên bản hai, đó là người cha tìm cách giải quyết sinh lý đối với người đàn bà mà ông cúi xuống từ nỗi đau hằn học bị vợ theo trai để đánh đổi thân xác. Xong, vứt bỏ như người ta vứt đồ ăn thừa: “Cha đưa cho chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, “Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê”. Người đàn bà có lòng tự trọng và yêu thương trẻ con, dẫu ăn nói có sổ sàng nhưng gặp cảnh hai đưa trẻ thiếu tình thương của mẹ, chị cam chịu và vui nữa: “Mà hên nghen, nhờ vậy (bị đánh-NV) mà được gặp mấy cưng, được ở chung vầy, vui thiệt vui…”. Rồi không thấy Tư nhắc đến chị ta nữa (chỉ cuối truyện mới cho người đọc gặp lại chị ta), để cảnh đời của ba cha con lại trôi dạt đến nơi cần đến, người cha lại “trả thù” một chị chủ nhà mặc dầu chị “bị” vứt bỏ vẫn “tin rằng sự lựa chọn nầy là đúng, tình yêu nầy xứng đáng được đánh đổi”, sau khi đã thỏa mãn dục tính với màn kịch: “Cha ghé một chợ nhỏ đầu xóm kinh, biểu chị lên mua một ít của cải muối đem theo. Người vừa khuất trong tiệm tạp hóa, cha cười. Chị em chúng tôi mãi mãi không quên cái cười đó, nó vừa dữ đội, đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài, riết lấy khuôn mặt cha, làm mắt cha hơi lồi ra, ánh lên như có nước. Cha quăng đồ đạc của chị lên bờ vung vãi. Và nổ máy cho ghe đi”.
Nhân vật hai chị em và những trang viết gợi tả tính dục
Tư viết chỉ lướt qua nhưng gợi trong lòng người đọc cả một xã hội thu nhỏ trong bóng tối cuộc đời. Ở đó có nhiều người chỉ vì nhu cầu, ở đó có người vì bản năng và ở đó hầu hết là những nhân vật thiếu chữ nên họ yêu thương cũng vội vàng. Tư để hai nhân vật chị em chứng kiến những cảnh ấy rồi nghĩ về “Cha không tốn nhiều công sức cho việc chinh phục (Những người đàn ông quê mùa đã tự đẩy người đàn bà của mình đến với cha, bằng nhiều cách. Họ thích uống say, họ thích dùng tay chân để tỏ rõ uy quyền. Mệt nhọc làm lụng trên đồng, người đàn ông đã trở nên khô cằn, có khi cả đời, họ không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử tế. Họ không biết vuốt ve, âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thỏ mãn, rồi quay lưng ngủ khò)”. Những chuyện phòng the để hai chị em nghĩ ngợi rằng: ‘Tôi có cảm giác cha quắp lấy người ấy, vùi mặt vào da thịt, ngấu nghiến mà lòng cha lạnh ngắt. Thằng Điền cay đắng, ‘Cha làm chuyện đó thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái… Tôi nạt, “Đừng nói bậy’”.
Trong truyện vừa Cánh đồng bất tận, Tư khắc họa thành công nhất đó là hình ảnh hai chị em Nương và Điền. Ở lứa tuổi trưởng thành nhưng gặp cảnh cha bỏ mẹ, hai chị em phải sống với người cha lầm lũi làm việc và lầm lũi cả trong quan hệ tình cảm. Hai chị em phải ‘tự học’ cách sống để làm người và học ngay cả bản năng (như là chuyện giáo dục giới tính mà học sinh bậc trung học phổ thông cơ sở hộc ở môn Sinh vật vậy) để chứng kiến và… bỏ qua. Hai chị em với cánh đồng trở nên quen thuộc và ‘lỡ’ chứng kiến cảnh sinh hoạt ‘mua bán’ sau vụ thu hoạch “Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng nghịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông”. Nhưng cánh đồng cũng là nơi mà chị em họ có quá nhiều kỷ niệm… buồn nhiều hơn vui: “Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng nầy với cái tên của chị, chắc chúng tôi xốn xang”.
Hai chị em cùng người cha sống lang bạt sau vụ mẹ bỏ nhà theo trai vì: “Kể nhiều chuyện như vậy là để trả lời chị, nhà tôi, má tôi, rốt cuộc đã trở thành tro bụi mất rồi. Nên khi hết mùa lúa chín, những người nuôi vịt chạy đồng khác đã trở về nhà còn chúng tôi lại tiếp tục lang thang.
Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng nầy đến cánh đồng khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi sống đời du mục, tới những chỗ vắng người”.
Người cha buồn mượn rượu và “đánh chị tôi, thường đánh khi vừa ngủ dậy. Đó là khi nguời ta thấy hoang hoải, chán chường, sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh…Tôi đành để cha đánh để ông bớt đau lòng. Sau nầy chị em tôi không day dứt chi cho mệt, vì hiểu thấu ra, mình bị đòn chỉ vì là con của má, vậy thôi”. Và hai chị em “buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ…Nhiều lúc tôi (Nương-NT) hơi nhớ con-người…
Những gì không biết, chúng tôi thử. Những gì không hiểu, chúng tôi chất thành khối trong lòng. Nhiều khi thấu đáo được một điều nào đó, chúng tôi phải trả giá cao”.
Hai chị em ước ao có ông nội, người đọc đến nay ruớm nước mắt: “Phải chi ông nầy là ông nội mình, thương đỡ chơi, hen Hai?”. Nghe câu đó tôi bỗng thấy mình nghèo rơi nghèo rớt, nghèo đến nỗi không có… ông nội để thương, thèm muốn bên đường. Tôi lắc đầu, bảo thôi”.
Về người em trai tên Điền
Chuyện người lớn khiến “Điền thao thức… Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.
Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, “Người ta yêu mẹ ra làm sao?”…Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề?
Khi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá”.
Và ở cái tuổi mới lớn còn nhiều thắc mắc về giới tính ấy Điền đã tự vượt qua như trong buổi câu cá cùng người đán bà điếm: “Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch dưới nước rất lâu. Chị cười nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa bé con, và thằng em trai mười bảy tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía dưới. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên: “Trời đất ơi, sao vậy nè, cưng?”.
Nương là người chị đóng vai trò ‘mẹ trẻ’ để vỗ về em trai và cũng chính là vỗ về, an ủi mình. Nương thấy được sự thay đổi lớn trong em trai: “Dấu hiệu bắt đầu từ một bữa trong xóm đê, tình cờ ngó đôi chó nhảy nhau, thấy các chị đang phơi lúa kêu ó ré lên, tôi rủ Điền giả đò nhắm mắt (trò nầy cực kỳ trẻ con, vì ai cũng mường tượng mồn một tư thế động tình của hai con chó). Thằng Điền phì cười, nó kêu lớn, “Hai, coi nè…” rồi cầm đoạn cây xông đến quất đôi chó tới tấp… Thằng Điền biết là tôi tôi đã nhìn – thấy – cái – gì – đó, nó chua chát cúi đầu. Điền chối bỏ niềm vui được trở thành một gnười đàn ông thực thụ. Nó tự kìm hãm bản năng trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng sự tất cả sự miệt thị, giận dữ, cămn thù. Nó phản kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha tôi làm. Giãy giụa đến rã rời, nhiều bữa, nó dầm mình dưới ao đến khi người tái nhợt…”.
Để khám phá dục tính nên ‘Điền yêu chị (người đàn bà được ba cha con cứu sống-NT) và Điền từ giã cuộc sống bó buộc trái tim người trai trẻ, Điền chạy theo chị và cũng để giải thoát chính mình.
Về người chị tên Nương
Nương sống trong hoàn cảnh với cha và em, sống trong nỗi lo sợ đến quen cả tuổi thơ mà lẽ ra Nương và Điền phải được thừa hưởng. Nương thương cha, tuy những lúc nhớ mẹ, chị đã phải cố ‘quên’: “Những thói quen, những cái gì liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ hình hài nầy”. Chị mơ ước bình dị đơn giản nhưng lại quá cao xa tấm tay của chị: “Tôi ôm quắp thằng Điền nghe những con sóng nhỏ lách tách vỗ vào mũi ghe, nói, Hai nhớ trường học quá à, cưng (Ôi cái trường xiêu dựng trên khu vườn chùa đầy cây thuốc, có ông thầy trẻ tuổi hay vò đầu tôi gvà xao xuyến hỏi, má khỏe hôn con?). Thằng Điền hỏi lại, “Mắc gì mà nhớ? Lãng òm…”. Tôi không biết, tôi đã ngưng nhớ nó từ khi sống cuộc sống trên đồng, nhưng đêm nay, sao tôi lại nghĩ tới, cả chuyện kiếm tiền để chữa mắt cho Điền (tôi vẫn nghĩ, sự xuất hgiện của nước mắt chỉ có ý nghĩa khi người ta khóc). Đêm nay, tôi sao thế nầy? Vì nhìn thấy niềm hy vọng ư? Và tôi ngủ trong nỗi xốn xang”.
Đến khi Điền chạy theo người đàn bà mà trót xem việc “Chị…làm đĩ quen rồi, mấy chuyện nầy nhằm bà gì mà mấy cưng buồn?”, Nương chỉ thầm mong cho em mình “Không biết tối nay thằng Điền có được mệt nhoài úp lên chị, hay vạ vật ở đâu đó, bên vách buồng (hay một ghi-đô bằng vải), đau vật đau vã nghe hoan lạc chảy thành những dòng rên xiết, kêu thét. Không biết nước mắt của nó đã khô chưa hay vẫn rỉ từng giọt như máu tươi”.
Người đời thường nói: “Đời cha ăn mặn đời con khát nước”, quả đúng vậy, người cha của Nương sau khi bị vợ rũ bỏ đã trở nên khô cứng tình cảm chỉ biết thỏa mãn xong xuôi ‘quất ngựa truy phong’. Do vậy cái linh cảm của Nương dành cho số phận của mình như niềm dự cảm trước. chính lúc người con trai bỏ đi, ông quan tâm đến đứa con gái tội nghiệp đã từng bị ông dày vò bởi tội giống mẹ, chính lúc này Nương đã ‘trả’ giúp cho cha, đó là Nương đã bị đám thanh niên cưỡng bức ‘Ba người họ ập tới tới phía sau, quây lấy tôi, quần áo vẫn đẫm bùn, mặt mũi sưng sỉa… Và món hàng bị ghì ngửa trên mặt ruộng bì bõm nước. Tôi ngạc nhiên thấy bầu trời im sẫm. Mênh mông. Không biết đã tắt nắng hay mặt trời không vói được ánh sáng đến nơi nầy? Hay những khuôn mặt nghèo đói, dốt nát tăm tối đã ch khuất nó?” ngay trước mắt ông ‘quả báo nhãn tiền’ là vậy. Trong cơn đau vật vã thể xác, Nương vẫn chưbng1 tỏ bản lĩnh không cam chịu ‘không để cảm giác đau tiếc làm mình lịm vào chết’. Nương kịp kêu lên tên em trai yêu quý nhưng “Thằng Điền thì ở xa,. Cánh đồng vắng ngắt, chấp chới vài cánh cò”. Thương cho phận gái như Nương trong hoàn cảnh quá sức thương tâm: “Ước gì cha tôi hiểu, để mà thanh thản, xưa rày, cái gì không biết hai chị em cũng đã thử, đó là một cách tự học để sống. Chỉ có sự giao tiếp giữa thân xác là tôi chưa từng trải qua”.
Những khung trời mới
Mở đầu thiên truyện Tư miêu tả cánh đồng nơi đã từng gọi trong gia đình bé nhỏ ấy nhiều buồn đau hơn hạnh phúc, để kết truyện, chị mở ra một vùng trời tương lai với “Những cánh đồng trở thành đô thị; những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát; những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa nghẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng đó, đã hắt hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình, vì không thể quay lại những cánh đồng cũ (với người quen cũ). Tôi đã từng trở ngược về những nơi đó theo cách của tôi, bằng mường tượng. Tôi gặp nhiều đứa trẻ tên Hận, tên Thù mang khuôn mặt rắp tâm của cha tôi, với đôi mắt sâu và chiếc mũi thẳng. Những đứa trẻ nhàu úa, cộc cằn, cắm cẳn, chỉ tiếng chửi thề là tươi rói, nhảy ra xoi xói ở đầu môi".
Truyện Chí Phèo Nam Cao cho một cái kết để mở ra nhiều cái bắt đầu như “Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng” nghĩa là còn có những Chí Phèo con ra đời, còn những định kiến xã hội đưa đẩy con người với ‘Nhân chi sơ tính bổn thiện’ để sông 1ác để tha hóa nhân cách, đánh mất minh. Nhưng bầu thai của Thị Nở có tác giả là Chí Phèo còn Nương chỉ biết mơ ước cho riêng mình, nói dại “Không biết con có bị có con không, hả cha?” và "Nó hơi sợ hãi. Cảm giác một cái gì, nhỏ xíu nhưng lanh lợi như con loăn quăn đang ngụp lặn trong nó. Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt nước mắt, trời ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhưng nó chấp nhận việc ấy, dù phũ phàng (với nó, chấp nhận cũng là một thói quen). Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”.
“Hai đứa trẻ” trong truyện ngắn của Thạch Lam thức đợi chuyến tàu đêm với ánh sáng nhưng là chuyến tàu của tương lai đổi mới của niềm tin và hy vọng, còn hai chị em của Nguyễn Ngọc Tư lại có những va vấp truy đuổi đến cái cùng cực, ray rứt và cái để đọng lại trong người đọc đó là thông điệp Tư gởi đến trong truyện vừa Cánh đồng bất tận, chỉ riêng tiêu đề đã toíat lên ý nghĩa của sự ‘bất tận’. Không có quý hơn tình cảm mái ấm gia đính, ở đó dẫu nghèo khó nhưng cha mẹ hạnh phúc, con cái hiền ngoan. Sự đỗ vỡ gia đình kéo theo bao hệ lụy cho con cái, sự giáo dục thương yêu sẽ làm con cái trưởng thành cả về thể lực và trí tuệ...
Cao quý hơn Tư đã định hướng cho người đọc nhất là những bậc cha mẹ cách giáo dục con cái ở tuổi mới lớn – đó là giáo dục giới tính. Câu kết truyện “là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn” quả là một sự nhân văn hóa và tôi nghĩ sở dĩ ‘Cánh đồng bất tận’ có sức hút kỳ lạ vì tính nhân văn ở chỗ đó. Được biết, Cánh đồng bất tận (NXB Trẻ, 11-2005, dày 215 trang, giá 27.000 đồng) sẽ tiếp tục ‘bất tận’ vì nay mai sẽ dựng thành phim nhưng trước hết rất cần có trong mỗi gia đình cuốn truyện này.
NGUYỄN TÝ
Báo Công An Thành phố Hồ Chí Minh
7 tháng 2, 2006
Đây là tập truyện thứ 7 của Nguyễn Ngọc Tư, ngay từ khi Cánh đồng bất tận xuất hiện trên tuần báo Văn Nghệ 4 kỳ liên tiếp đã tạo thành một hiệu ứng trong giới sáng tác. Có người cho rằng, Nguyễn Ngọc Tư đang thể nghiệm một phong cách sáng tác mới sau khi đã có nhiều truyện ngắn viết về miền Tây – nhất là về những thân phận người nghệ sĩ cũng như người phụ nữ ở tận cùng Đất Mũi, Cà Mau.
Cũng có người cho rằng, Tư (người viết quen gọi thân mật kiểu Nam bộ-NT) vẫn viết làng nhàng chỉ hơi thay đổi bút pháp, nghĩa là có đề cập đến khía cạnh dục tính mà một số cây bút trẻ nữ ở Hà thành đang gây xôn xao trên diễn đàn văn học gần đây.
Nói gì thì nói, sức bật để tự làm mới mình là điều Tư đáng được nhận lời khen. Không phải từ khi báo Tuổi Trẻ đăng đàn lại 6 kỳ liên tiếp Cánh đồng bất tận mới gây sự chú ý (trước đó trên mạng Evan của báo Điện tử Vnexpress.net đã đăng tải từ báo Văn Nghệ). Người viết bài này đọc được từ khi Tư đăng đàn nhưng chỉ được 2 số đầu vì những tưởng Tư cũng chỉ viết về thân phận người đàn bà bị ruồng bỏ, xã hội lại đẩy đưa số phận vào con đường tha hóa nhân cách, về người đàn ông bị vợ phụ tình, về hai đứa con lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình thương chỉ biết “tự học” cách để mà sống mà chứng kiến những bất công… cho đến khi đọc những lời bình luận miệng, tôi lại lần dở đọc tiếp và đúng là Tư có mới… thiệt.
Theo tôi, đọc văn của Nguyễn Ngọc Tư người đọc chỉ nên đọc một truyện rồi gấp sách lại, ngẫm nghĩ về nỗi đau thân phận người, thấu hiểu tâm trạng của nhân vật và một chút trải nghiệm của tác giả mới phần nào thấm thía cái giọng văn đặc sệt miền Tây (nghĩa là thấy sao nói vậy). Đó chính là nỗi đau đời mà dẫu vô tình hoặc cố ý khi xây dựng nhân vật, Tư tạo nên một phong cách không lẫn vào ai - ấy là chỗ văn Tư dễ đọng vào lòng người sau những giờ phút mệt nhọc với cuộc sống cơm áo gạo tiền, đọc thư giãn đọc nghiền ngẫm, ồ thật hay và tình làm sao ấy.
Về nhân vật, Tư đã dựng lên những thân phận người, ở đó số phận và bi kịch trong từng hoàn cảnh có nét tương đồng. Phần lớn những người phụ nữ gặp cảnh tréo ngeo trong duyên số, những anh chàng Hai Lúa yêu mà hổng dám ngỏ lời, những ông già cuối đời vẫn sống cô đơn và hơn nữa là biết chấp nhận. Chấp nhận để đồng cảm với những thân phận trẻ dầu chỉ thoáng chốc chung sống như tình cảm ruột thịt ở ông già Năm Nhỏ (Cải ơi!) hay ông Chín trong Nhớ sông đến cả người cha trong Cánh đồng bất tận – những người đàn ông chịu đựng và cảm thông ở ông Năm Nhỏ, ông Chín và ở người cha của hai đứa trẻ lại lặng im tìm cách ‘trả thù’ người vợ phụ tình trên thân xác những người phụ nữ nhẹ dạ cả tin khác…
Và những chàng thanh niên gặp những chị phụ nữ lỡ làng nên duyên vợ chồng trong Duyên phận so le, Một trái tim khô, Cuối mùa nhan sắc, Hiu hiu gió bấc, Mối tình năm cũ… đều có tình yêu thương của con người bằng đời mà đối xử “tử tế” (chữ dùng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn) với nhau, để cuối cùng là hạnh phúc nhưng ở từng trang viết của Tư lại có cái kết quá day dứt và hơi quá đời thật khi cái hậu của mỗi câu chuyện thường là dở dang, lận đận dù họ chỉ “một phút huy hoàng rồi chợt tắt”.
Và phải chăng từ truyện ngắn hay nói cho gần hơn đó là truyện vừa Cánh đồng bất tận, Tư mới để manh nha một chút cái ác có phần nhẫn tâm trong ba số phận của một hoàn cảnh: người cha (Út Vũ), Nương (chị gái) và Điền (em trai). Tôi cho rằng ấy cũng là tảng băng ngầm mà Tư giờ mới xuất tuyệt chiêu.
Viết về dục tính và viết sao cho khéo ấy là phong cách của mỗi nhà văn, Tư có cái đặc tả thật gần nhưng xa nói như ông bà ta đó là “nói bóng nói gió”.
Người cha và những người phụ nữ bị bỏ rơi trong 'Cánh đồng bất tận'
Phiên bản đầu tiên đó là hình ảnh người đàn bà bị đánh ghen và cũng thật tàn nhẫn từ hình ảnh Hoạn Thư ghen Thúy Kiều đến hiện thực đời thường xã hội, khi đàn bà ghen họ sẵn sàng rạch mặt bằng lưỡi lam hay tạt axít, sởn tóc… nay tôi mới thấy và lần đầu tiên có một cách trả thù ghen hơi ác “Người ta đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…”, và Tư cho nhân vật lý giải: “Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. Đọc thấy hơi rợn.
Người đàn bà ấy có chung số phận của nhiều người “Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê”, ai lại có cách nghĩ ngược như Tư. Bởi ngày ngày chúng ta chứng kiến những cô gái thôn quê có chút nhan sắc và đẹp nữa là khác nhưng kém chịu học “chạy” lên thành phố đua nhau lấy chồng Đài, chồng Hàn hay đổi đời bằng cách làm tiếp viên nhà hàng, khách sạn quán nhậu và gần nhất là gái gọi, gái đứng đường…
Phiên bản hai, đó là người cha tìm cách giải quyết sinh lý đối với người đàn bà mà ông cúi xuống từ nỗi đau hằn học bị vợ theo trai để đánh đổi thân xác. Xong, vứt bỏ như người ta vứt đồ ăn thừa: “Cha đưa cho chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, “Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê”. Người đàn bà có lòng tự trọng và yêu thương trẻ con, dẫu ăn nói có sổ sàng nhưng gặp cảnh hai đưa trẻ thiếu tình thương của mẹ, chị cam chịu và vui nữa: “Mà hên nghen, nhờ vậy (bị đánh-NV) mà được gặp mấy cưng, được ở chung vầy, vui thiệt vui…”. Rồi không thấy Tư nhắc đến chị ta nữa (chỉ cuối truyện mới cho người đọc gặp lại chị ta), để cảnh đời của ba cha con lại trôi dạt đến nơi cần đến, người cha lại “trả thù” một chị chủ nhà mặc dầu chị “bị” vứt bỏ vẫn “tin rằng sự lựa chọn nầy là đúng, tình yêu nầy xứng đáng được đánh đổi”, sau khi đã thỏa mãn dục tính với màn kịch: “Cha ghé một chợ nhỏ đầu xóm kinh, biểu chị lên mua một ít của cải muối đem theo. Người vừa khuất trong tiệm tạp hóa, cha cười. Chị em chúng tôi mãi mãi không quên cái cười đó, nó vừa dữ đội, đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài, riết lấy khuôn mặt cha, làm mắt cha hơi lồi ra, ánh lên như có nước. Cha quăng đồ đạc của chị lên bờ vung vãi. Và nổ máy cho ghe đi”.
Nhân vật hai chị em và những trang viết gợi tả tính dục
Tư viết chỉ lướt qua nhưng gợi trong lòng người đọc cả một xã hội thu nhỏ trong bóng tối cuộc đời. Ở đó có nhiều người chỉ vì nhu cầu, ở đó có người vì bản năng và ở đó hầu hết là những nhân vật thiếu chữ nên họ yêu thương cũng vội vàng. Tư để hai nhân vật chị em chứng kiến những cảnh ấy rồi nghĩ về “Cha không tốn nhiều công sức cho việc chinh phục (Những người đàn ông quê mùa đã tự đẩy người đàn bà của mình đến với cha, bằng nhiều cách. Họ thích uống say, họ thích dùng tay chân để tỏ rõ uy quyền. Mệt nhọc làm lụng trên đồng, người đàn ông đã trở nên khô cằn, có khi cả đời, họ không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử tế. Họ không biết vuốt ve, âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thỏ mãn, rồi quay lưng ngủ khò)”. Những chuyện phòng the để hai chị em nghĩ ngợi rằng: ‘Tôi có cảm giác cha quắp lấy người ấy, vùi mặt vào da thịt, ngấu nghiến mà lòng cha lạnh ngắt. Thằng Điền cay đắng, ‘Cha làm chuyện đó thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái… Tôi nạt, “Đừng nói bậy’”.
Trong truyện vừa Cánh đồng bất tận, Tư khắc họa thành công nhất đó là hình ảnh hai chị em Nương và Điền. Ở lứa tuổi trưởng thành nhưng gặp cảnh cha bỏ mẹ, hai chị em phải sống với người cha lầm lũi làm việc và lầm lũi cả trong quan hệ tình cảm. Hai chị em phải ‘tự học’ cách sống để làm người và học ngay cả bản năng (như là chuyện giáo dục giới tính mà học sinh bậc trung học phổ thông cơ sở hộc ở môn Sinh vật vậy) để chứng kiến và… bỏ qua. Hai chị em với cánh đồng trở nên quen thuộc và ‘lỡ’ chứng kiến cảnh sinh hoạt ‘mua bán’ sau vụ thu hoạch “Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng nghịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông”. Nhưng cánh đồng cũng là nơi mà chị em họ có quá nhiều kỷ niệm… buồn nhiều hơn vui: “Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng nầy với cái tên của chị, chắc chúng tôi xốn xang”.
Hai chị em cùng người cha sống lang bạt sau vụ mẹ bỏ nhà theo trai vì: “Kể nhiều chuyện như vậy là để trả lời chị, nhà tôi, má tôi, rốt cuộc đã trở thành tro bụi mất rồi. Nên khi hết mùa lúa chín, những người nuôi vịt chạy đồng khác đã trở về nhà còn chúng tôi lại tiếp tục lang thang.
Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng nầy đến cánh đồng khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi sống đời du mục, tới những chỗ vắng người”.
Người cha buồn mượn rượu và “đánh chị tôi, thường đánh khi vừa ngủ dậy. Đó là khi nguời ta thấy hoang hoải, chán chường, sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh…Tôi đành để cha đánh để ông bớt đau lòng. Sau nầy chị em tôi không day dứt chi cho mệt, vì hiểu thấu ra, mình bị đòn chỉ vì là con của má, vậy thôi”. Và hai chị em “buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ…Nhiều lúc tôi (Nương-NT) hơi nhớ con-người…
Những gì không biết, chúng tôi thử. Những gì không hiểu, chúng tôi chất thành khối trong lòng. Nhiều khi thấu đáo được một điều nào đó, chúng tôi phải trả giá cao”.
Hai chị em ước ao có ông nội, người đọc đến nay ruớm nước mắt: “Phải chi ông nầy là ông nội mình, thương đỡ chơi, hen Hai?”. Nghe câu đó tôi bỗng thấy mình nghèo rơi nghèo rớt, nghèo đến nỗi không có… ông nội để thương, thèm muốn bên đường. Tôi lắc đầu, bảo thôi”.
Về người em trai tên Điền
Chuyện người lớn khiến “Điền thao thức… Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.
Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, “Người ta yêu mẹ ra làm sao?”…Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề?
Khi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá”.
Và ở cái tuổi mới lớn còn nhiều thắc mắc về giới tính ấy Điền đã tự vượt qua như trong buổi câu cá cùng người đán bà điếm: “Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch dưới nước rất lâu. Chị cười nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa bé con, và thằng em trai mười bảy tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía dưới. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên: “Trời đất ơi, sao vậy nè, cưng?”.
Nương là người chị đóng vai trò ‘mẹ trẻ’ để vỗ về em trai và cũng chính là vỗ về, an ủi mình. Nương thấy được sự thay đổi lớn trong em trai: “Dấu hiệu bắt đầu từ một bữa trong xóm đê, tình cờ ngó đôi chó nhảy nhau, thấy các chị đang phơi lúa kêu ó ré lên, tôi rủ Điền giả đò nhắm mắt (trò nầy cực kỳ trẻ con, vì ai cũng mường tượng mồn một tư thế động tình của hai con chó). Thằng Điền phì cười, nó kêu lớn, “Hai, coi nè…” rồi cầm đoạn cây xông đến quất đôi chó tới tấp… Thằng Điền biết là tôi tôi đã nhìn – thấy – cái – gì – đó, nó chua chát cúi đầu. Điền chối bỏ niềm vui được trở thành một gnười đàn ông thực thụ. Nó tự kìm hãm bản năng trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng sự tất cả sự miệt thị, giận dữ, cămn thù. Nó phản kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha tôi làm. Giãy giụa đến rã rời, nhiều bữa, nó dầm mình dưới ao đến khi người tái nhợt…”.
Để khám phá dục tính nên ‘Điền yêu chị (người đàn bà được ba cha con cứu sống-NT) và Điền từ giã cuộc sống bó buộc trái tim người trai trẻ, Điền chạy theo chị và cũng để giải thoát chính mình.
Về người chị tên Nương
Nương sống trong hoàn cảnh với cha và em, sống trong nỗi lo sợ đến quen cả tuổi thơ mà lẽ ra Nương và Điền phải được thừa hưởng. Nương thương cha, tuy những lúc nhớ mẹ, chị đã phải cố ‘quên’: “Những thói quen, những cái gì liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ hình hài nầy”. Chị mơ ước bình dị đơn giản nhưng lại quá cao xa tấm tay của chị: “Tôi ôm quắp thằng Điền nghe những con sóng nhỏ lách tách vỗ vào mũi ghe, nói, Hai nhớ trường học quá à, cưng (Ôi cái trường xiêu dựng trên khu vườn chùa đầy cây thuốc, có ông thầy trẻ tuổi hay vò đầu tôi gvà xao xuyến hỏi, má khỏe hôn con?). Thằng Điền hỏi lại, “Mắc gì mà nhớ? Lãng òm…”. Tôi không biết, tôi đã ngưng nhớ nó từ khi sống cuộc sống trên đồng, nhưng đêm nay, sao tôi lại nghĩ tới, cả chuyện kiếm tiền để chữa mắt cho Điền (tôi vẫn nghĩ, sự xuất hgiện của nước mắt chỉ có ý nghĩa khi người ta khóc). Đêm nay, tôi sao thế nầy? Vì nhìn thấy niềm hy vọng ư? Và tôi ngủ trong nỗi xốn xang”.
Đến khi Điền chạy theo người đàn bà mà trót xem việc “Chị…làm đĩ quen rồi, mấy chuyện nầy nhằm bà gì mà mấy cưng buồn?”, Nương chỉ thầm mong cho em mình “Không biết tối nay thằng Điền có được mệt nhoài úp lên chị, hay vạ vật ở đâu đó, bên vách buồng (hay một ghi-đô bằng vải), đau vật đau vã nghe hoan lạc chảy thành những dòng rên xiết, kêu thét. Không biết nước mắt của nó đã khô chưa hay vẫn rỉ từng giọt như máu tươi”.
Người đời thường nói: “Đời cha ăn mặn đời con khát nước”, quả đúng vậy, người cha của Nương sau khi bị vợ rũ bỏ đã trở nên khô cứng tình cảm chỉ biết thỏa mãn xong xuôi ‘quất ngựa truy phong’. Do vậy cái linh cảm của Nương dành cho số phận của mình như niềm dự cảm trước. chính lúc người con trai bỏ đi, ông quan tâm đến đứa con gái tội nghiệp đã từng bị ông dày vò bởi tội giống mẹ, chính lúc này Nương đã ‘trả’ giúp cho cha, đó là Nương đã bị đám thanh niên cưỡng bức ‘Ba người họ ập tới tới phía sau, quây lấy tôi, quần áo vẫn đẫm bùn, mặt mũi sưng sỉa… Và món hàng bị ghì ngửa trên mặt ruộng bì bõm nước. Tôi ngạc nhiên thấy bầu trời im sẫm. Mênh mông. Không biết đã tắt nắng hay mặt trời không vói được ánh sáng đến nơi nầy? Hay những khuôn mặt nghèo đói, dốt nát tăm tối đã ch khuất nó?” ngay trước mắt ông ‘quả báo nhãn tiền’ là vậy. Trong cơn đau vật vã thể xác, Nương vẫn chưbng1 tỏ bản lĩnh không cam chịu ‘không để cảm giác đau tiếc làm mình lịm vào chết’. Nương kịp kêu lên tên em trai yêu quý nhưng “Thằng Điền thì ở xa,. Cánh đồng vắng ngắt, chấp chới vài cánh cò”. Thương cho phận gái như Nương trong hoàn cảnh quá sức thương tâm: “Ước gì cha tôi hiểu, để mà thanh thản, xưa rày, cái gì không biết hai chị em cũng đã thử, đó là một cách tự học để sống. Chỉ có sự giao tiếp giữa thân xác là tôi chưa từng trải qua”.
Những khung trời mới
Mở đầu thiên truyện Tư miêu tả cánh đồng nơi đã từng gọi trong gia đình bé nhỏ ấy nhiều buồn đau hơn hạnh phúc, để kết truyện, chị mở ra một vùng trời tương lai với “Những cánh đồng trở thành đô thị; những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát; những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa nghẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng đó, đã hắt hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình, vì không thể quay lại những cánh đồng cũ (với người quen cũ). Tôi đã từng trở ngược về những nơi đó theo cách của tôi, bằng mường tượng. Tôi gặp nhiều đứa trẻ tên Hận, tên Thù mang khuôn mặt rắp tâm của cha tôi, với đôi mắt sâu và chiếc mũi thẳng. Những đứa trẻ nhàu úa, cộc cằn, cắm cẳn, chỉ tiếng chửi thề là tươi rói, nhảy ra xoi xói ở đầu môi".
Truyện Chí Phèo Nam Cao cho một cái kết để mở ra nhiều cái bắt đầu như “Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng” nghĩa là còn có những Chí Phèo con ra đời, còn những định kiến xã hội đưa đẩy con người với ‘Nhân chi sơ tính bổn thiện’ để sông 1ác để tha hóa nhân cách, đánh mất minh. Nhưng bầu thai của Thị Nở có tác giả là Chí Phèo còn Nương chỉ biết mơ ước cho riêng mình, nói dại “Không biết con có bị có con không, hả cha?” và "Nó hơi sợ hãi. Cảm giác một cái gì, nhỏ xíu nhưng lanh lợi như con loăn quăn đang ngụp lặn trong nó. Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt nước mắt, trời ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhưng nó chấp nhận việc ấy, dù phũ phàng (với nó, chấp nhận cũng là một thói quen). Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”.
“Hai đứa trẻ” trong truyện ngắn của Thạch Lam thức đợi chuyến tàu đêm với ánh sáng nhưng là chuyến tàu của tương lai đổi mới của niềm tin và hy vọng, còn hai chị em của Nguyễn Ngọc Tư lại có những va vấp truy đuổi đến cái cùng cực, ray rứt và cái để đọng lại trong người đọc đó là thông điệp Tư gởi đến trong truyện vừa Cánh đồng bất tận, chỉ riêng tiêu đề đã toíat lên ý nghĩa của sự ‘bất tận’. Không có quý hơn tình cảm mái ấm gia đính, ở đó dẫu nghèo khó nhưng cha mẹ hạnh phúc, con cái hiền ngoan. Sự đỗ vỡ gia đình kéo theo bao hệ lụy cho con cái, sự giáo dục thương yêu sẽ làm con cái trưởng thành cả về thể lực và trí tuệ...
Cao quý hơn Tư đã định hướng cho người đọc nhất là những bậc cha mẹ cách giáo dục con cái ở tuổi mới lớn – đó là giáo dục giới tính. Câu kết truyện “là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn” quả là một sự nhân văn hóa và tôi nghĩ sở dĩ ‘Cánh đồng bất tận’ có sức hút kỳ lạ vì tính nhân văn ở chỗ đó. Được biết, Cánh đồng bất tận (NXB Trẻ, 11-2005, dày 215 trang, giá 27.000 đồng) sẽ tiếp tục ‘bất tận’ vì nay mai sẽ dựng thành phim nhưng trước hết rất cần có trong mỗi gia đình cuốn truyện này.
NGUYỄN TÝ
Sông nước Hậu giang và Nguyễn Ngọc Tư
Kiệt Tấn
phù sa nước đục khó dòm
nhớ anh em khóc đỏ lòm con ngươi
Nắng Hậu giang mưa Tiền giang
Nhìn nhau mà lệ rớt hai hàng
Câu ca vọng cổ chìm trong tối
Mùi mẫn còn rung dưới nguyệt tàn
Từ Ngọn đèn không tắt qua đến tập truyện Giao thừa, Nguyễn Ngọc Tư đã bỏ bớt được tính chất học trò trong cách kể chuyện và ngay cả trong lối viết. Tư trở nên già dặn hơn. Truyện kể cũng đơn giản thôi, nhưng mạch lạc hơn. Tập Giao thừa gồm 17 tựa truyện cho 161 trang. Thể văn nói chuyện linh hoạt tự nhiên, không cường điệu ồn ào. Văn gắn bó với đời sống, chơn chất, không sần sùi ngổ ngáo như lối viết “mới” hiện nay. Cách nói thành thật hiền hòa, không xốc táp ngang ngược. Người đọc không thấy ở Tư cái cố gắng “làm văn chương”, không có những câu văn thời thượng, trau chuốt, không có những kiểu nói om sòm mà rỗng tuếch. Bình dị. Đơn giản. Dễ hiểu. “Có sao nói dậy”. Vậy thôi. Mà tại sao phải nói rắc rối? Nhiều khi nói rắc rối là nhằm để che đậy một sự trống rỗng, một cái dốt đặc nào đó ở mình. Cho nên phải “rắc rối hết cỡ nói!” cho thiên hạ tá hỏa và phục lăn? ”
Trong tập Giao thừa, phần lớn bài viết có truyện – có chút truyện, hay gọi là… Đôi khi bài viết được dựng lên quanh một chi tiết, quanh một tình cảm thương ghét, quanh một quyến luyến, một quan tâm, để ý, “có cảm tình” giữa các nhân vật trong truyện. Chẳng hạn: Giao thừa, Bởi yêu thương, Chuyện vui điện ảnh, Hiu hiu gió bấc, Một mối tình, Nhớ sông…
Đọc vài ba truyện khác nhau, có cảm tưởng Tư mê cải lương, mê điện ảnh, và cũng có thể là mê làm đào hát luôn không chừng (?) Có gì mà lấy làm lạ? Đã làm dân miền Nam mà không biết mê cải lương, không biết mê vọng cổ là một thiệt thòi lớn! Truyện Bởi yêu thương nhắc tới gánh hát rã khiến cho người đọc ngậm ngùi. Hồi xưa, nhà tôi ở cạnh rạp hát nên tôi cũng đã từng chứng kiến hai ba gánh hát cải lương nhỏ rã gánh tại chỗ vì trời mưa ế khách. Rồi đào kép, hề diễu, người đờn, con nít lân la đi xin cơm ăn trong xóm. Nhưng cũng nhờ láng giềng cô bác thương tình nên không một ai bụng đói. Tình nghĩa đùm bọc đặc thù của người miền Nam. Mưa Tiền giang nắng Hậu giang. Những tay hảo hớn sống ngang tàng. Trái tim hào hiệp bao trời đất, Bốn biển anh em rượu rót tràn...
Ngoài mê cải lương, còn có cảm tưởng Tư bị ám ảnh bởi tên gọi của các nhân vật. Những cái tên trở đi trở lại trong nhiều truyện khác nhau, như Ông Chín, San, Xuyến, Điệp, Diệu, Giang... Tưởng chừng như những nhân vật đó có thật trong đời sống. Họ bị phăng cuốn trong dòng đời bất cưỡng, quanh quẩn trong rạch ngòi Hậu giang chằng chịt, nay được Tư phân cắt thành những mẩu truyện ngắn. Biết đâu chừng khi nối liền hết lại, những mẩu truyện ngắn này sẽ kết hợp thành một truyện dài mạch lạc, một bức tranh đời éo le, lâm ly, ngang trái.
Còn một thứ không thể nào thiếu được trong tất cả các truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là sông nước: sông bốn phía, nước tư bề! Quơ chỗ nào cũng đụng nước, ngó chỗ nào cũng thấy sông. Nước là nền, sông là dòng cho ngòi bút của Tư triền miên tuôn chảy, cuốn theo những chữ nghĩa đầy ắp tình người như phù sa lợn cợn. Sinh đẻ ở miệt Hậu giang, gắn bó với cuộc đất Cà Mau như Tư thì cũng không thể nào khác hơn được. Dứt sông là dứt hơi thở, cạn nước là cạn máu huyết. Là mất hết cái lẽ sống còn. Tư đặt tựa truyện: Dòng nhớ (tr. 47). Nhớ gì? Nhớ sông (tr. 154). Nhớ sông, nhớ nước, nhớ da diết, nhớ dai dẳng, nhớ muốn khùng, nhớ muốn điên. Nhắm mắt vẫn thấy, hôn mê vẫn thấy. Thấy hoài thấy hủy.
Truyện Dòng nhớ: Một người đàn ông (gọi là ba) trốn nhà theo chung sống với một người đàn bà (gọi là dì) trên ghe thương hồ. Hai người có con với nhau, nhưng rủi ro đứa con nhỏ bò lọt sông chết chìm. Người đàn ông nghe theo lời má, bỏ sông lên bờ cưới vợ khác (gọi là má). Và tiếp theo đó, thỉnh thoảng dì trở lại neo ghe trên bến cũ để ngóng ba, người chồng giờ đây đã vuột khỏi tầm tay mình. “(...) chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được” (tr. 51). Cắm sào thì cắm sào, đậu bến thì đậu bến, nhưng “người ta nhớ thương đứt ruột có thể chạy ào lại để gặp nhau, nhưng vì lương tâm không làm được, đành ngồi đây ngó lên, ngồi ở trên ngó xuống” (tr. 56)
Còn người đàn ông trên bờ cũng không ngớt ngóng ra sông mà nhớ người thuở trước. “(...) đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạt kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông” (tr. 50). “Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia” (tr. 51) Tâm can rời rã, tuy có mặt đó mà cũng đồng thời vắng mặt: “Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi” (tr. 50)
Bằng lối viết dung dị, Tư đã làm bật sáng lên được cái tương tư của hai người tuy cách mặt nhưng không xa lòng. Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm, Vạn lý sầu lên nối tiếp mây…[1] Cái thương nhớ tơi bời hiện lên theo từng hình ảnh rõ nét, khắc khoải theo từng chữ viết dung dị mà đúng tận tâm can.
Rồi người đàn bà bỗng dưng bỏ bến sống đi biệt, không còn bao giờ trở lại bến xưa cắm sào mong ngóng nữa. Và cuối cùng người đàn ông chết trong mong đợi, thi thể vùi chôn ở vườn nhà. Người vợ cho dù có hờn ghen hừng hực cũng thấu hiểu được tấm tình khắng khít giữa ông chồng bền lòng và tình địch bền dạ của mình. “Má tôi vẫn không ngừng tìm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được, chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôi” (tr. 57). Người đàn bà muốn giúp cho chồng mình chấm dứt dòng nhớ. Nhưng liệu được chăng khi dòng sông vẫn còn đó, con nước vẫn trôi hoài, vẫn trôi xa tắp về miền bất tận. “Đó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy” (tr. 57).
Những dòng sông… Ôi! Những dòng sông… khiến chợt nhớ thơ Nguyễn Bính: “Sông đụng đâu sông, sông gặp sông, Thuyền xuôi theo nước, nước theo dòng. Người về người gặp quê người đó, Ta gặp ai đây giữa bụi hồng?”
Và những dòng sông, những dòng nhớ của Tư vẫn cứ tuôn chảy miệt mài, len lỏi trong khắp cùng ngõ ngách Hậu giang. Cuối cùng, dòng nhớ biến thành một nỗi nhớ mong khắc khoải: Nhớ sông, bài viết chót trong tập Giao thừa. Mà không nhớ sao được, khi cả cuộc đời ba, cả cuộc đời má, cả cuộc đời hai con mình đều gắn bó bền chặt với sông nước. “Bây giờ hỏi lại, Giang nói không có con kinh, con rạch nào mà ghe chưa đi qua, không có đường ngang ngõ tắt nào mà ông Chín không biết. Xuôi dòng, ngược dòng, con nước kém, con nước rong... Không ai nói với ai, nhưng cả nhà ông đều nghĩ, chắc là sống như vầy hoài, như vầy mãi thôi. Chị em Giang đùa nhau, sau này lấy chồng ra riêng, ba cho mỗi đứa một chiếc ghe” (tr. 156)
Giang tự nó nghĩa là sông, cái tên như một định mạng trói buộc từ đời nào với rạch ngòi. “Giang không hiểu sao mình nhớ hoài, nhớ ràng ràng cái ngày đó. Cho nên qua vàm lần nào, Giang đều kéo con Thủy ra, Giang chỉ, má chết chỗ này nè” (tr. 156). Má trợt sào té đầu đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe, rồi cả thân người hụp vào lòng sông, chìm lĩm. Vợ chết, ông Chín vẫn tiếp tục chở hai đứa con gái đi bán hàng bông xuôi ngược trên khắp các ngả sông ngòi. Thủy mê đất từ hồi nhỏ, từ thuở còn bồng. “Giang nhắc, ờ phải em ham đất lắm, hồi nhỏ ghe đậu bến nào chế cũng coi em bắt mệt, cứ xoay lưng là em chổng mông cạp đất ăn ngon lành” (tr. 159). Chế là tiếng Tiều châu để gọi chị mình.
Rồi cái mộng ước định cư trên đất liền của ba đã (hay gần như) trở thành sự thật: Giang lên bờ, lấy chồng tên Thuấn ở Đập Sậy, có đất làm ruộng. Những tưởng một khi đã lên bờ định cư rồi là quên được sông. Nhưng liệu quên được không? Thỉnh thoảng ông Chín ghé qua nhà Thuấn thăm con gái và nhậu tì tì với thằng rể tốt bụng. “Ghé Đập Sậy, Giang đòi ông Chín ở lại một đêm, cho Giang xuống ghe ngủ với con Thủy. Giang than nức nở, “Trời ơi con nhớ ghe quá trời đất đi”. Xuống ghe, Giang đưa tay rờ rẫm từng món hàng, từng miếng sạp” (tr. 157). Rưọu vô ngà ngà, Thuấn than thở với ông già vợ của mình: “Thường thì cơm nước, quét dọn xong, để hở ra giờ nào Giang lấy xuồng chèo đi giờ ấy. Trời đất, nó đi đâu? Thuấn cười chua chát, “Hổng biết, nó chèo khơi khơi vậy đó ba à, con cũng nghi bậy trong bụng, có bữa con rình đi theo, vợ con chèo đã đời rồi nó buông chèo lủi vô đám lá, lấy tay vịn, ngồi ở đó. Rồi chèo về, vậy à” (tr. 158).
Trời ơi! Nhớ tới nước này thì phải gọi là ghiền mới phải. Nhớ sông! Hay là ghiền sông, ghiền nước, ghiền bơi, ghiền chèo, ghiền cái mui ghe, ghiền cái sạp nằm, ghiền con sóng lăn tăn, ghiền dòng phù sa ngầu đục, ghiền tiếng nước khua bì bõm? Mà một khi đã ghiền tới mức này là kể như hết thuốc chữa. Chỉ còn nước trả Giang lại cho sông nước mà thôi.
Xếp quyển Giao thừa lại, người đọc tự hỏi Giang có phải là người con gái thứ tư trong một gia đình nào đó ở miệt Cà Mau xa mút tí tè, nơi tận cùng đất nước: Cô Tư. Tư. Nguyễn Ngọc Tư, cô gái Hậu giang có cái nhìn hiền hậu, có nụ cười thắm thiết và nước da bánh ít mặn mòi?
Mưa Hậu giang nắng Tiền giang
Cô em kẹp tóc bịt răng vàng
Cẩn tim xanh đỏ càng quê lắm
Mắt liếc khua theo guốc rộn ràng...
Mưa Hậu giang nắng Tiền giang
Bến sông san sát những nhà sàn
Võng trưa kẽo kẹt em tôi hát
Gió đưa bông thắm nở về chàng
“Ầu ớ… Gió đưa gió đẩy bông trang, Bông búp về nàng bông nở về anh… Ầu ơ…” Nhà sàn, loại nhà nửa trên bờ nửa dưới nước, dựng trên những chưn cột rắn rỏi đóng chặt xuống lòng sông, sàn lót bằng ván. Nhà sàn rất phổ thông ở vùng sông nước đồng bằng Cửu Long, như Bạc liêu, Cà Mau, Cần thơ, Vĩnh long, Mỹ tho…
Mãi đến khi bước chân vào Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư, Trăm năm bến cũ con đò tôi mới bắt gặp lại được chiếc võng đưa và mái nhà sàn ở miệt phù sa của Tư. “Cửa sau nhà tôi trông ra sông. Tôi thường ví đó là một khung tranh, có lúc nó hiện lên những chiếc tàu cao nghệu, hùng hục đi qua, che khuất cả dãy nhà sàn bên kia sông…” (tr. 163)… “Chỗ tôi ngồi có chiếc võng con giăng ngang căn chòi de ra mép nước” (tr. 165). Nhà sàn còn đó, con đò còn đó, võng giăng còn đó, mà tiếng “ầu ơ” ru em đã vỗ cánh bay đi mất biệt tự lúc nào. Có lẽ kể từ sau năm 75, kể từ lúc Tư chào đời và ngủ đưa trên võng, không còn ai nhớ hát ru con bằng những câu ca dao “ầu ơ ví dầu” nữa.
Thời tản cư ở Bạc Liêu, lúc tôi 5 tuổi, ghe ba má tôi trôi giạt xuống tận vùng Đầm Chim, Đầm Dơi. Thỉnh thoảng ba tôi nhắc tới tên sông Trèm Trẹm ở miệt Năm Căn, tôi không nhớ rõ mình đã có lần đi qua con sông đó hay chưa. Cho tới lúc Tư bơi xuồng ba lá đưa tôi đi thăm chợ nổi ở Cà Mau, tôi mới biết chắc là mình đang thả trôi trên dòng sông Trẹm. “Giữa chợ nổi Cà Mau, cảm giác như gặp được những khu vườn của miệt sông Tiền, sông Hậu, như nhìn thấy những rẫy khóm, rẫy mía miên man dọc trên miền sông Trẹm quê mình” (tr. 136). Ở Bạc Liêu, Cà Mau, rất đông người Triều châu chuyên nghề làm rẫy – với những tiếng gọi nhau rất là chệt “Tiều”: tỉa, hia, chế, số, tùa củ, tùa nứng… (Nói Quảng nói Tiều!) Sông Trẹm, dòng sông ngầu đục đã chảy vào rẫy thơ của Lâm Hảo Dũng thời chinh chiến “Ấy dòng sông Trẹm xưa nay, Còn thương cây mắm rễ cài trên không. Lênh đênh em một chiếc xuồng, Đời tôi lính trận cỏ bồng chân mây”. Đời trai thời loạn. Một cuộc binh đao. Một cơn máu lửa tơi bời. Bao nhiêu người đã vĩnh viễn nằm xuống trên xứ sở tang thương vì bom đạn? “Hận người con muỗi vo ve, Nên trong cuộc chiến bạn bè giết nhau. Ấy dòng sông Trẹm trôi mau…”
Hãy chậm dầm bơi lại để đi vào cái chợ nổi của Tư và bắt gặp Chút tình sông nước. “Nằm giữa lòng thành phố Cà Mau, quãng cuối sông Gành Hào, đứng trên cầu nhìn về phía mặt trời mọc, người ta có thể nhìn thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chổng lên loang loáng dưới mặt trời” (tr. 134). Tư thích nói về những cái chợ nho nhỏ họp nhóm chùm nhum ở miệt ruộng rẫy, những cái chợ chộn rộn đầy ắp tình nghĩa, thương mến, thân thuộc, nơi mà mọi người gần như đều biết hết mặt nhau. Chẳng hạn cái Chợ bên đường ở một làng quê hẻo lánh nào đó… “Như người phụ nữ chân quê, chợ nhỏ nhoi, hiền hậu, trầm tính dịu dàng (…) Buổi sáng sao mà dậy mùi thơm nồng hăng của rau húng lủi, húng cây, rau cần nước, cần rừng” (tr. 39) Nhưng gà vịt, cá tôm, rau củ trong vườn nhà bày ra đó chỉ để mong bán được, trả giá thấp cao, trông chừng, hoặc canh ngó thôi sao? Không, không! đâu phải chỉ có bao nhiêu đó. “Chị em chụm lại rôm rả với nhau chuyện chồng con, chuyện hàng xóm, ruộng lúa, vườn cây… (chuyện xóm quê mà, nói biết chừng nào cho hết)” (tr. 39) Khách từ phương xa tới và có dịp qua ngang chợ, hãy để ý. Hãy để ý cho tận tường, hãy ngó cho thiệt kỹ, hãy hít thở cho thiệt nồng nàn đi rồi sẽ thấy…
Nắng Tiền giang mưa Hậu giang
Xe lam về tới miệt Ba Càng
Ruộng khô thổi nóng lùa chưn tóc
Tóc em thơm phức mùi dưa gang
Nhưng liệu nói như vậy mà đã bày tỏ hết được tấm lòng của mình chưa? Chưa! Tư còn có thêm một cái chợ nữa: Chợ của má. “Tôi gọi những cái chợ ruộng dân dã này là chợ của má. Bởi nó hiền lành, lam lũ như má. Bởi chợ nhỏ nhoi, khiêm tốn như má, nhưng nó mang một cái hồn sâu, mênh mông lắm nên người ta nhắc nhở hoài, thương hoài như thương… má vậy” (tr. 151). Trong chợ của má, những người buôn thúng bán bưng là những ai? “Họ là những người gắn bó máu thịt với cảnh chợ quê này không chỉ vì mưu sinh mà là mối gắn bó thiêng liêng. Không có rau, không đi chợ, đâm… buồn. Có người lặn lội đi bán từng trái bình bát chín, không đủ tiền xe thì đi bộ, “miễn sao đỡ ghiền chợ” (tr. 153). Ở thành thị người ta ghiền quyền lực, ghiền tiền bạc, ghiền karaôkê, ghiền bia ôm, ghiền xăng nhớt, ghiền ma túy thì ở miệt ruộng rẫy này, người dân quê họ… ghiền chợ! Một loại ghiền rất tốt cho sức khỏe và càng thắt chặt thêm tình nghĩa xóm làng.
Đi vào thế giới Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư, người ta bắt gặp một trời một biển tình thương và gắn bó. Và cũng chính vì bởi gắn bó liền tay liền ruột với đất đai mà người dân quê phải gánh chịu biết bao là phũ phàng cay đắng, biết bao là nợ nần chồng chất, biết bao là thất vọng ê chề. Đôi ba người tự tử, rất nhiều người bắt buộc phải bán rẻ đất nhà mà ngậm ngùi bỏ xứ ra đi trong hờn tủi và nước mắt. Rồi sẽ thấy.
Tạp văn chia làm 35 tựa trải đều trên 186 trang. Cũng như trong ba tập truyện trước của Tư, trên trang nào của Tạp văn cũng bắt gặp thường trực chữ nghĩa và cách nói miền Nam, đặc biệt là miệt Hậu giang của Tư. Đếm không xuể, kể không hết. Bút pháp cũng vẫn là giọng văn nói duyên dáng nhuần nhuyễn và tự nhiên của Tư. Lối viết này tạo cảm giác thân quen, gần gũi. Tuy nhiên, cũng nên cẩn thận, chọn lọc kỹ và dùng chữ cho chính xác. Vì nếu cứ viết phóng túng đẩy đưa theo hứng khởi, lối “văn nói” sẽ rơi vào sự dễ dãi, cẩu thả, làm mất đi phần đóng góp cần thiết và quý giá của người viết: sự sáng tạo. Một khi sáng tạo mất rồi thì tính cách văn chương của bài viết cũng sẽ mất luôn, không còn lôi cuốn được người đọc nữa.
Hai thể loại Tư thường dùng nhứt là tùy bút và ký sự. Đề tài khá đa dạng: tiếc thương những vùng đất cũ, bàng hoàng trước những đổi thay sau “giải phóng”, lãng đãng những kỷ niệm về bạn bè ngày xưa, ám ảnh bởi cái nghèo xơ xác dai dẳng của người dân quê, phẩn uất trước thái độ tắc trách và nạn tham nhũng của cán bộ nhà nước. Cái tính chất văn chương ở các tập truyện Giao thừa, Cánh đồng bất tận đã phải tạm gác qua một bên. Cũng dễ hiểu thôi. Chạm trán từng giây từng phút với thực tế cam go, khắc nghiệt, gai góc, thử hỏi còn ai hơi sức đâu mà thẩn thơ vớ vẩn “Hôm nay trời nhẹ lên cao, Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Trong thời khắc hiện tại, người dân quê bắt buộc phải đối đầu với những khó khăn sờ sờ trước mắt và bắt buộc phải nhận thức “Hôm nay trời nặng lên cao, Tôi buồn “tôi hiểu” vì sao tôi buồn”! Đọc Tạp văn mới thấu hiểu được cái thực trạng thê thảm của người dân quê miền Nam sau “giải phóng”.
Bắt đầu Tạp văn là một cuộc hành trình trở lui về dĩ vãng, khi trời Trở gió. “Thoạt đầu, âm thanh ấy sẽ sàng từng giọt tinh tang, thoảng và e dè, như ai đó dứng xa ngoắc tay nhẹ một cái, như đang ngại ngần không biết người xưa có nhớ ta không” (tr. 7). Cơn gió gì mà lạ vậy? Và cứ hiu hiu như vầy hoài sao? “(…) bây giờ (nó) lớn thành một dòng gió, xấp xải, cuống quýt xốc vào tấm tôn bên chái đông đã bị đứt đinh từ mùa trước. Cồn cào. Nồng nhiệt. Mà thiệt dịu dàng. Ôi! Gió chướng” (tr. 7). Cơn gió chướng mùa trước , cơn gió chướng năm ngoái đã trở về thổi vào cõi lòng xốn xang của Tư những niềm nhớ không nguôi.
Tận cùng phương Nam đất nước, nơi mang địa danh Cà Mau, một mũi phù sa nôn nả lấn tràn ra biển Thái bình, Đất mũi mù xa. “Nơi ấy, những ngôi nhà đều không cửa, nhà mở toang cho gió nam vào, chướng tới, bấc qua, nhìn nhà là hiểu người, chân thật đến bày cả gan ruột” (tr. 11). Làm nhớ những ngôi nhà không cửa do chính bàn tay thợ mộc của ba tôi và anh hai tôi chung sức dựng lên ở Bạc Liêu, ở Vĩnh long. Một truyền thống Hậu giang còn giữ được. “Người Đất mũi sao mà hiền từ, mến khách thấu trời thấu đất vậy không biết, dường như sống giữa bao la trời, bao la biển này, người ta phải học cách thương nhau để khỏi cô độc” (tr. 14). Tùy bút Đất mũi mù xa của Tư là một bài viết vô cùng nồng nàn thắm thiết về phong tục và con người đất Cà Mau. Khiến nhớ muôn trùng.
Gió chướng còn đem về thêm cho Tư một nỗi nhớ khác nữa. Nhớ cái đầm nước mênh mông thuở trước, bây giờ đã xa. Xa đầm thị Tường. “Đầm Thị Tường là vùng đầm nước mênh mông với diện tích mặt nước hơn bảy trăm héc ta, quãng rộng nhất gần hai cây số, rộng tay mạnh dầm như dân xứ này, từ bờ nam sang bờ bắc mất hơn một ngàn lát dầm, từ bờ tây sang bờ đông nhìn mút mắt” (tr. 20). Người dân đầm Thị Tường chuyên sống bằng nghề đánh lú cá tôm. Mà cá tôm hồi thời trước thiếu gì, ê hề, ăn mệt nghỉ. Và một khi đã có mồi ngon rồi thì tất nhiên là phải có nhậu nhẹt. Cư ngụ chung quanh đầm là “những người hào sảng đậm đặc chất nam bộ. Đàn ông nhậu một mâm thì đàn bà cũng một mâm. Đàn ông say thì ca vọng cổ, (…) đàn bà say chỉ nhảy múa cho vơi hơi rượu đi” (tr. 24) Rất nhiều người từ đầm đã ra đi để thành lập những xóm nổi tiếng là kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thời trước. “Nguời dân móc ruột mình ra mà nuôi cán bộ, sống chết với cách mạng” (tr. 24) Sống thì không biết sao, chớ chết thì thấy rõ trước mắt. Chết để nuôi hy vọng cho những ngày mai tươi đẹp huy hoàng, chết trong niềm mơ ước một tương lai xán lạn rực rỡ cho con cháu mình mai sau, dĩ nhiên. Để rồi coi. Nhưng còn cái đầm? Đầm Thị Tường bây giờ ra sao? “Chuyện cá tôm nhiều vô kể quanh năm, chuyện một chiếc xuồng con với vài tay lưới có thể nuôi cả gia đình đã quá xa vời. Chuyện xuồng đi tới đâu cá nược đuổi theo đến đấy chỉ còn là cổ tích” (tr. 25). Phải. Cổ tích, nhưng mà là một cổ tích kết cuộc không có hậu. Buồn năm phút! Hay buồn năm ngày, năm tháng, năm năm? Buồn dài dài… Buồn mút mùa lệ thủy!
Nhưng khét tiếng chống Pháp và “chống Mỹ cứu nước” đâu phải chỉ có mỗi một mình cái Đầm Thị Tường. Còn một cái xã oanh liệt khác nữa. Nó là một trong ba xã vây quanh đầm. Ở đó cũng có toàn là dũng sĩ cứu nước, và toàn là bà già giết giặc hết trơn chớ bộ. Thiếu gì. Đếm không hết. Ở đâu? Thì ở Hưng Mỹ chớ đâu. Người dân Hưng Mỹ can trường và trung kiên số một. “Nhớ những người dân áo vá, tay lấm chân bùn nhưng một lòng theo Đảng, theo cách mạng. Nhớ hàng ngàn cái hầm đào dưới những vườn dừa bạt ngàn mà người Pháp người Mỹ không tìm được lối vào vì miệng hầm nằm trong trái tim mỗi cụ già, em nhỏ” (tr. 43) Đó thấy chưa? Nói có trật chút nào đâu. Tới em nhỏ cũng là “con nít giết giặc” luôn nữa, huống hồ là mấy bà già và mấy ông già!
Nhưng bây giờ thì sao? Xã Hưng Mỹ le lói tới mức nào sau cái ngày “giải phóng” năm 75? “Ba mươi tháng tư này nữa là tròn 29 năm hòa bình. Con đường quốc lộ về ngang qua xã vẫn ca hoài bài “Đường chỉ đẹp những khi còn… dang dở”. Xã có 3911 hộ, đã ngót 251 hộ nghèo, 13 ấp thì một ấp rưỡi chưa có lưới điện” (tr. 43). Chỉ tiêu mà đạt đến mức đó thì quả thực là cao cấp, còn thành tích thì hết sức là hoành tráng, vậy còn đòi hỏi gì nữa cơ chứ? “Bây giờ đất này còn nghèo hơn trước, cái nghèo lừa mị người xứ xa, lừa mị những ông quan kinh lý ưa kiểm tra lớt lớt” (tr. 44). Kiểm tra lớt lớt là kiểm tra như thế nào cơ chứ? Này! Định xúc phạm và phá hoại Nhà nước đấy phỏng? Nhà nước đang bù đầu để xử lý một vấn đề lớn lao và trọng tâm vô cùng là vấn đề giáo dục. Vậy thì yêu cầu đường sá, điện nước lẻ tẻ làm chi mà lắm thế? “Hỏi cô con gái tên Trang đã học tới lớp mấy rồi, cô cười, nghèo quá, mấy anh em em hổng ai biết chữ” (tr. 45) Không biết chữ thì phải đi học chữ lấy một mình. Nhà nước đâu thể học chữ giùm cho nhân dân được! Nhưng đâu phải chỉ có mỗi một cái “hổng ai biết chữ”. Hưng Mỹ còn có rất nhiều cái “hỏng có” khác nữa. “Hồi đó Thị Tường có “ba không”, không theo giặc, không bỏ Đảng, không bỏ cách mạng. Bây giờ thì “tùm lum không”. Không gạo, không tiền, không cá, không rau cỏ…” (tr. 47) Này này! Hết phá hoại Nhà nước, bây giờ còn định bôi bác chế độ đấy phỏng?
Tới đây xin mở ngoặc nói về một hiện tượng đang xảy ra ở đất nước ta. Khi đi karaôkê, kể từ Đà lạt ra tới Huế, ở đâu các em nhỏ hậu phương cũng đều xổ ra toàn là giọng miền nam. Ngay cả tiếng “Huệ” cũng lai giọng nam kỳ. Tò mò “hỏi người em nhỏ lạc loài từ đâu?” Em thì nói từ Chợ Gạo, Mỏ Cày, Bến Tranh, Chương Thiện… Em thì “thành thật khai báo với cách mạng”, em là em nhỏ Bến Tre, Giồng Trôm, Đồng Tháp, Cái Nhum… Toàn là những vùng ủng hộ kháng chiến ngày trước. Và toàn là gái miền Tây. Bật ngửa! Và khi em Chợ Gạo cất giọng mũi nhão nhẹt dân dã để lâm ly biểu diễn karaôkê thì vẫn cứ nhứt định là “anh cầm tầm vông vạt nhọn, em cầm dao phay sáng ngời, hai đứa mình phom phom chạy qua cầu khỉ quyết chí diệt thù, phất cao lá cờ cách mạng…” khí thế vô cùng hùng dũng. “Rằng quen mất nết đi rồi!” Cái “tiếng xấu” mà các cô gái miền Tây phải hứng chịu này, Tư cũng đã có dịp nói phớt qua trong Kính thưa anh nhà báo! Khi bạn bè hỏi em gái từ đâu đến, em gái đã chẳng đặng đừng, lí nhí, thẹn thò thưa thốt: “Thưa, em ở Cà Mau” (và tôi làm sao tránh được ánh mắt cười cợt, nghi ngại của người thị thành khi biết tôi là gái miền Tây)” (tr. 105). Đóng ngoặc.
Trở lại Hưng Mỹ. Lần này, sau khi đọc kỹ Ngậm ngùi Hưng Mỹ lần nữa, thấy ở đoạn kết Tư cũng có nhen nhúm lên một chút hy vọng trong lòng bà con ta đó chớ. “Nghe mấy ông thầy coi nước nói năm nay tôm tép khá lắm đây (…) Không biết có phải là những lời an ủi, vực nhau đứng dậy rồi bị đồn đại ra không, nhưng tôi biết ơn mấy ông lắm lắm, khi nhen lại cái khát vọng sống trong lòng người Hưng Mỹ. Ờ, sống để mà bước tới” (tr. 50).
Từ xưa đến nay, hy vọng vẫn luôn luôn là liều thuốc trị được bá bịnh – trừ bịnh ỉa chảy dĩ nhiên! Chú Hai sạt nghiệp vì đổi qua nghề nuôi vịt, nhưng ác thay, lại trúng nhằm mùa dịch cúm gia cầm. Nợ ngân hàng lút đầu. Vậy mà trong nhà vẫn không ngớt tiếng cười rộn rã. “Rầu cũng nghèo mà cười cũng nghèo, sao mình hỏng cười, hỏng hy vọng cho đỡ khổ hả cô?” (tr. 113) Chí lý! Thiếm Hai duy vật biện chứng Mác Lê như vậy rất là chí lý, nghe lọt lỗ tai hết cỡ nói. Dân Hậu giang ta bao giờ cũng lạc quan... hết thuốc chữa. Vì có sao đâu? “Lúa thất thì hy vọng trúng mùa sau, giá rẻ như bèo thì cứ đinh ninh năm sau sẽ được giá. Lứa này tôm chết thì chờ lứa sau, lúc thả bọc tôm nhỏ như cây kim xuống đầm, vẫn mong mai này còn gặp lại chúng” (tr. 113/114). Tư chợt bừng mắt trước một điều hết sức hiển nhiên – hiển nhiên tới mức người ta không để ý, như cái không khí mình đang thở chẳng hạn. “Tôi nhận ra rằng, nông dân mình xưa rày có món đặc sản “độc” lắm, nhờ món đó mà họ sống từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác. Đó là “hy vọng” (tr. 113)
Hết vớt tôm chết thì tới chôn vịt sống. Hết cúm gia cầm thì có liền “bão tôm” thổi tới “từ tốn, lặng lẽ, mà bào mòn sức chịu đựng của con người”. Lo gì! “Vớt từng con tôm nhỏ bằng ngón tay út lên lòng rưng rức, đứt ruột (...) Có ai làm gì nó đâu mà nó chết, mình quý nó còn hơn mạng mình nữa mà? (...) Má tá hỏa khi biết hầu hết tôm giống trên thị trường không hề được kiểm dịch” (tr. 118) Này! Đừng có vu oan cho Nhà nước nhé cô Tư! Nhà nước ta ngày đêm không ngừng lo lắng đào sâu giải pháp cho nhân dân. Nhà nước không ngừng quy hoạch, không ngừng chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Người khác chỉ rành có sáu câu, chứ Nhà nước ta thì rành tới sáu câu... rưỡi. “Người dân bao đời gắn bó với cây lúa bây giờ nôn nả cho nước mặn vào đồng để nuôi tôm” (tr. 99). Cũng hợp lý thôi. Cây lúa cần nhiều nước ngọt mà thu hoạch lại quá ít ỏi thì thay nước mặn vào! Còn chờ gì nữa? “Chỉ mới một mùa tôm (đầu) thôi, bác à, nhưng đó là mùa tôm người nông dân vùng chuyển dịch vắt kiệt mình ra trước bao nỗi cực nhọc, buồn vui” (tr. 116) Vắt kiệt? Cô đừng có quá nhời chứ cô Tư. Đã vắt kiệt rồi thì làm sao vẫn cứ còn vắt hoài được hoài? “Chuyện tôm chết nông dân đã rành sáu câu rồi, chỉ khác, đây là năm thứ tư tôm chết, nghĩa là năm thứ tư nông dân Cà Mau vắt kiệt mình trong nỗi lo đói nghèo” (tr. 108). Năm thứ tư? Tội nghiệp quá nhỉ? Nhưng ba bốn năm nay chịu đựng nổi, chắc bà con nông dân ta vẫn hãy còn đủ hy vọng để mà lướt qua năm thứ năm. Và không chừng còn “dư sức qua cầu” luôn năm thứ sáu.
Mùa “bão tôm” từ tốn và nạn tôm chết hà rầm dàn trải lê thê trên nhiều bài viết của Tư trong Tạp văn: Ngậm ngùi Hưng Mỹ, Thư từ quê, Đi qua những cơn bão khô, Chờ đợi những mùa tôm, Gió mùa thao thức... Trong cảnh cùng quẩn, người dân quê ngước nhìn lên “trên” để mong cứu giúp. “Trên” đây không phải là “trên Trời” hay “ơn Trên”, mà là “ở trên”. Rồi “ở trên” mới ra tay ban phép mầu ra làm sao? “Mấy ông Nhà nước không nghĩ ra cách nào cứu tụi tui, để vầy hoài, hai năm nữa không chết đói cũng chết vì trộm cướp cho cô coi, bần cùng sanh đạo tặc, ông bà mình dạy vậy” (tr. 108) Làm gì mà lo xa quá vậy? Mới chỉ có bấy nhiêu đấy thôi mà bà con đã kêu trời như bộng! Cũng tại bà con hết đấy chứ. “Báo chí than bà con mình thiếu thông tin, thiếu hiểu biết rầm trời, các chú “ở trên” nhằn, bà con mình nóng vội quá” (tr. 118) Thì lỗi tại bà con rành rành đây này! “Thuở đời nay, năm nào mấy ổng cũng lên ti vi kêu năm này phấn đấu đạt năng suất cao hơn năm trước, khuyến khích giống mới này trúng hơn giống cũ, vậy mà làm ra hột lúa trần thân, bán không có giá, mấy ổng đổ thừa tại nông dân làm cho cố mạng nên bán không được” (tr. 184) Nhưng đổ thừa như vậy cũng đâu có trật. Làm chi mà làm cho cố sát, ai mà ăn dộng cho hết. Hơn nữa, bây giờ bà con ta lại còn bày đặt “phấn đấu” với lại “năng suất” năng siết rùm beng. Hồi xưa ở Cờ Đỏ, má tui cũng có một thời cày thuê cấy mướn, nhưng đâu có biết “phấn đấu” với “năng suất” là cái khỉ mốc gì! Vậy mà vẫn có gạo ăn hoài hoài.
Bà con cứ đòi hỏi Nhà nước phải có bổn phận đối với nhân dân. Chớ còn cái bổn phận của nhân dân đối với Nhà nước bà con để nó ở đâu? Bộ quăng nó cho chó ăn hết rồi hả? “Khi đôi bàn tay gầy guộc của tôi vuốt lại những tờ bạc lẻ nhàu nát lem luốc mồ hôi, dầu nhớt... để nộp thuế cho đằng phường, nghĩ tới mấy vụ tham nhũng động trời ngay tại quê mình, nghĩ tới những bữa tiệc vung vinh tiền triệu, chắc cái mặt tôi buồn hết biết, mà tôi còn khóc, hổng chừng...” (tr. 166) Thôi mà Tư! “Lau mắt đi em, đêm đã khuya rồi, buồn chi nữa em?” Tư hãy bắt chước cái lạc quan kinh niên của má mình. “Ai biểu làm nông dân làm chi. Chỉ hy vọng mấy ông “ở trển” làm cách nào cho dân bớt khổ, má tôi nhấn mạnh, bằng cái giọng hết sức tin tưởng, “Mấy ổng hứa rồi...” (tr. 185). Đó thấy chưa! Ngày nào mà mấy ổng còn hứa thì bà con ta vẫn còn có “quyền” hy vọng. Hy vọng dâng cao, hy vọng miên man, hy vọng tràn trề, không biết để đâu cho hết. Vậy thì bà con còn than cái nỗi gì? “Thôi thôi... Đủ lắm rồi! Xin đổi giùm cho tuồng khác. Thành thật cám ơn đồng chí”.
Khi bị vây kín bốn bề bởi những khó khăn của đời sống, người ta thường có một phản ứng rất tự nhiên để bảo tồn lấy mình: chạy trốn! Bỏ đi nhậu, đi karaôkê, đi du lịch. Hoặc coi phim bộ, đi ăn tiệm, đi gặp gỡ bạn bè, nói chuyện tào lao, đàn đúm ca hát. Nếu không làm gì được hết thì người ta chạy trốn thực tại bằng cách lùi sâu vào cõi không thực. Thả hồn về những kỷ niệm đẹp ngày cũ. Về những ký ức có bóng mát cỏ cây, có tiếng nước vỗ lách tách, có tiếng lá khua tâm sự rì rào. Về những dòng sông thương nhớ, về những đò xưa bến cũ, về những cuộc tình dang dở bây giờ đã mây trôi...
Nắng Tiền giang mưa Hậu giang
Sông Mỹ đò đưa bến Vĩnh Tràng
Bên chùa tôi đã ôm em siết
Xa rồi còn tiếc chuyến đò ngang
Cái phản ứng để tự vệ của Tư trước những bức bách của đời sống cũng vậy thôi. Trong đời Tư cũng đã từng có những dòng sông cũ, những bến đò xưa, những Trăm năm bến cũ con đò. “Trăm năm để lỡ hẹn hò, Cây đa bến cũ con đò khác đưa”. Một bến đò cũ nào đó để Tư thả hồn mình về đó nổi trôi, hầu dìm bớt đi những nỗi muộn phiền đang vây khổn tư bề. “Bến đò nằm cạnh nhà. Có thể nghe được tiếng bước chân người xoèn xoẹt lại qua, nghe mũi đò chạm lịch kịch vào bến, và tiếng chèo chém ngọt vào mặt nước những lát cắt dày. Và nhiều khuya nghe tiếng gọi đò xao xác (...)” (tr. 163). Rồi tự hỏi biết đâu chừng mình đã nghe lộn tiếng gì thành tiếng gọi đò của ai đó . “Đêm nghe tiếng ếch bên tai, Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”[2] . Khách đi đò cũng khác nhau lắm. Có khi là những người phụ nữ đi chợ sáng lấy đò trưa trở về bên kia sông. Có khi là đám học trò đứng ngồi lóc nhóc trên đò qua bờ bên này để tới trường. “Có người qua đò rồi quay về, có người không trở lại. Bến đò cũng là nơi nhiều đứa con gái qua sông lên thành phố rao bán mình trong những “chợ vợ”, để lại mấy thằng con trai chiều chiều ra bến đón đã đời mới ngơ ngác, trời ơi, mình đang chờ ai đây?” (tr. 166). “Chiều chiều chim vịt kêu chiều, Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau...” Dứt một cuộc tình. Tàn một đời trai. Rồi đời trinh nữ. Khóc đi em!
Dòng sông cũ, con đò xưa đã êm đềm đưa Tư lâng lâng vào Đôi bờ thương nhớ. Chiều qua, Tư nhận được thư của bạn mình báo sẽ cố thu xếp trở về cố hương thăm nhà. “Rồi bạn kể ra một dọc những cảnh moi từ ký ức cũ, nào là những tàn cây trứng cá đằng góc sân, hàng điệp đỏ gie mình ra mé nước che cái bến, mấy chiếc xuồng ba lá buộc dập dềnh vào chân cầu” (tr. 123) Bạn xa xứ vậy mà đã 12 năm rồi. Mười hai năm đã trôi qua, biết bao là vật đổi sao dời trên cái xứ sở nát tan này. Và cũng biết bao là đổi thay trong công cuộc vá víu lại đất nước. Vì vậy, khi thấy bạn mình nhắc nhở những cảnh xưa mà bạn còn nhớ, Tư đâm lo ngay ngáy cho bạn mình. “Nhà cũ của bạn tôi nằm đâu? Cái xóm nhỏ nhìn ra sông, đón nắng từ sông, uống gió từ sông đó bây giờ đâu? Thở dài. Những ngôi nhà trống huơ, hoang tàn, trơ trơ gạch ngói, cái còn cái đã ngụp một nửa dưới nước...” (tr. 124). Khi thư bạn nhắc lại cảnh cũ người xưa, Tư cũng thầm tiếc và ước ao mình có được phép mầu để dựng lại ngôi nhà cũ, trồng lại hàng điệp đỏ, trồng lại cây trứng cá lá mềm năm xưa, và còn nhiều thứ khác nữa... Nhưng rồi Tư bỗng giựt mình chợt nghĩ lại. “Tỷ dụ như tôi làm được những điều phi thường ấy thì bạn của tôi ơi, cái hồn quê, hồn đất năm xưa đã không còn. Mà tánh bạn cũng như tôi, khăng khăng hoài: “Hoa nào đẹp bằng hoa tuổi nhỏ, Ổi nào ngon bằng ổi năm xưa”. Kỷ niệm của những ngày tuổi trẻ vô giá” (tr. 128). Chẳng những vô giá mà lại còn hết sức cần thiết nữa. Ôm vào lòng mình kỷ niệm dĩ vãng (và ôm luôn cả hy vọng tương lai) như cái phao nổi, hầu giữ cho mũi mình còn lé đé trên mặt nước trong hiện tại để mà thở. Cũng được! Cũng tốt thôi!
May mắn thay! Trong lúc Tư còn lặn hụp chới với giữa dòng kỷ niệm ngoài khơi thì còn có được một người đứng trụ hai chưn rất vững trên đất liền để mà... lạc quan. Phải! Có thiệt. Và Tư đã gặp con người lạc quan đó: nhỏ Bèo! “Má ơi! Con quạ nó đứng chuồng heo, Nó kêu bớ má bánh bèo chín chưa?” “Chín rồi! Đừng có kêu nữa, coi chừng tắt tiếng!” Bèo! Một nhỏ bạn lâu quá chừng không được giáp mặt. Mà giáp mặt rồi thì sao? “Bèo rối rít mời tới nhà chơi, mà, cái giọng của con bạn, trời ơi, nó tươi rói, giòn tan, sung sướng, tự hào (...) Rồi nó cười hực hỡ, rạng rỡ, như thể nhà nó là một thiên đường“ (tr. 60) Một thiên đường! Thiệt sao? Cái nhà của con nhỏ đó ra làm sao mà nó le lói quá cỡ thợ mộc vậy? “Ai dè nhà nó nằm tuốt trong con hẻm Cỏ sau lưng siêu thị. Đó là một con hẻm dài, hẹp te, tối tăm, sình bùn ọp ẹp, ngoa ngoắt (...) điệu này, tới cuối hẻm, chắc nhà chỉ còn bằng cái miễu Ông Tà” (tr. 60) “Hoàng hôn dần xuống, tiếng chuông chiều dần dần vẳng xa, em Bèo xanh lướt nhẹ gót hồng từ từ trôi sâu vào hẻm Cỏ tím, để rơi lại sau lưng mình một mùi hương vương vấn của cỏ nội hoa đồng...” Tuyệt! Thơ mộng ngất ngư. Lãng mạn thấu trời! Vậy mà chê con người ta là chê ra làm sao? Còn cái nhà của cô nó hoành tráng tới mức nào mà dám chê nhà con người ta một cách không có cơ sở và dấu ấn gì hết trọi vậy? “Nhà tôi nằm ngang chợ phường, quay lưng với sông, ngửa mặt đón bụi đường, trong nhà không lúc nào ngớt tiếng xe, tàu chạy (tôi ngồi viết văn ở đó, giữa tiếng động chói gắt khủng khiếp của tàu xe, tiếng nhạc nhùng nhằng từ xe kẹo kéo, tiếng những người đàn bà bên chợ cá cự cãi nhau)” (tr. 61/62). Có vậy thôi à? Vậy mà cứ tưởng đâu nhà cô là một thiên đường vô cùng cao cấp, đáp đúng tiêu chuẩn ISO và đầy đủ hết mọi chất lượng quốc tế chớ. Làm con người ta hết hồn, thiếu chút nữa té lăn cù dưới đất!
Con nhỏ Bèo có lời tha thiết như vậy, nhưng khi lò dò quanh co, quẹo mặt quẹo trái cho tới hết cái hẻm Cỏ để bước vô được thiên đường của con nhỏ Bèo rồi thì thấy nó ra làm sao? “Mái lợp bằng lá cũ mèm, ngửa cổ đã thấy lấp lánh trời sao. Nước bưng ra để cái cộp, khách chưa kịp uống lá mục đã rớt vào, nên nước nghe thơm mùi lá lắm” (tr. 61) “Hà! Cái lầy mời chế dẩm xà há!” Tuy nhiên, biết đâu nhờ uống được nước trà có pha mùi lá lợp nhà thâm niên của nhỏ Bèo mà Tư ngộ được thiền và ngộ được luôn cái “Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc” của người xưa? “Tôi tới chơi một lần tự dưng buồn, nghe thất vọng quá trời đất, nghe trong lòng có một chút ghen hờn. Con Bèo học hành lở dở, nghề nghiệp cũng chẳng cao sang, sao nó lại ngộ chữ “tri túc”, còn mình thì không?” (tr. 61) Phải nói “chưa” thì đúng hơn là “không”. Cần phải kiên cường học tập cách mạng thêm nhiều hơn nữa, cần phải khởi nghĩa thêm nhiều bận nữa, may ra. Bởi lẽ, “biết đủ thì là đủ”, chớ biết tới mức nào mới là đủ bây giờ? Rồi nghĩ tới nghĩ lui gần nát óc, Tư mới gẫm ra: “Tôi chân thành cảm ơn những cuộc đi xa, nó làm cho tôi biết nhớ nhà, ờ, miễn là nhà-của-mình, thôi thì, sao cũng được” (tr. 63). Trong thâm tâm mỗi người, ai cũng thiết tha có được Một mái nhà. Là cái chắc!
Bước ra đường gặp con nhỏ Bèo lúc nào cũng tích cực lạc quan và lúc nào cũng sẵn sàng cất tiếng cười tươi rói thì sức mấy mà buồn nổi! Mà Tư cũng hên lắm nghe. Ngoài con nhỏ Bèo vui vẻ kinh niên ra, Tư còn có thêm được Một người bạn không biết viết văn. Và cũng không bao giờ biết buồn luôn: Nguyệt! Bữa Tư đang uốn tóc ở tiệm cạnh nhà, cái đầu chơm bơm, tóc tai cuốn từng cuốn như chả giò thì bà tiên Nguyệt thình lình giáng thế. Bất ngờ gặp nhau, mừng thôi hết biết. Khi Tư “thành thật khai báo với cách mạng” là mình làm nghề viết văn, Nguyệt “à” lên một tiếng cảm thông rồi chia sẻ nỗi niềm với Tư bằng một cái giọng hết sức là tội nghiệp xót xa: “Vậy à, ờ, ráng đi, ai biểu hồi nhỏ mầy giỏi văn làm chi”. Lời của nó thiết tha đến nỗi làm tôi tin rằng mình tội nghiệp thiệt, thấy thương quá đi. Người không viết văn sướng hơn mình nhiều” (tr. 52) Vậy à? Nguyệt tỏ vẻ chê cái nghề viết văn, còn nó, nó có làm được chuyện gì “khá” không? “Nó giỏi giang, chu đáo, làm việc nào ra việc ấy (chắc là vì không biết viết văn như tôi?). Nấu món nào chồng cũng thích, bạn bè chồng tới nhà hai năm sau còn nhắc bữa ăn cá lóc luộc mẻ nghe ngon tới bây giờ” (tr. 52). Được lắm. Nấu nướng như vậy rất là đáng khen. Nhưng về mặt nghệ thuật, cái sở thích, cái “gu” của nó có “siêu” lắm không? “Nó nói nó không thích phim Mỹ, khó hiểu lắm, hổng giống phim Đài loan, coi lần nào cũng khóc muốn chết” (tr. 53)
Tới nhà bạn chơi, đưa mắt ngó lên cái kệ sách lèo hèo thấy không có quyển nào mang tên tác giả Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn “nhớn” bèn hỏi chớ bạn ta đọc sách gì? “Nguyệt kể ra nào là “Tình như mây khói”, “Yêu mãi người ơi”, “Mai em theo chồng”... loại sách vừa dễ hiểu vừa có chữ bự coi không mỏi mắt” (tr. 55). Dĩ nhiên! Tại sao phải kiếm chuyện khó mà làm? Tại sao phải kiếm chữ nhỏ mà đọc cho lòi con mắt? Rồi than mệt. Mệt cầm canh!
Nguyệt kiếm cách gặp gỡ bạn bè lu bù. Còn Tư thì bận viết văn (làm đại sự!) Khi bận viết thì đành gác chuyện đi chơi với bạn qua một bên. Khi rảnh rang tìm bạn để chơi và để nhậu (dô! dô!) thì chẳng có ma nào. Buồn năm phút! Và trong một phút hoang mang, nàng chợt ớn lạnh rùng mình ba cái rồi lắng nghe cô đơn chầm chậm lấn vô cái tâm hồn tội nghiệp nhỏ bé bằng cỡ bàn tay năm ngón của mình. “Nguyệt thì chẳng bao giờ cô đơn như thế. Nó để dành cả một tâm hồn không vướng bận để quan tâm, chia sẻ, chu toàn hết thảy chuyện lặt vặt của cuộc đời. Còn tôi...” (tr. 56) Còn tôi thì sao? Bộ tính xuống vọng cổ sao đây cô Tư? Nói trước đi cho người ta hờm sẵn để mà phựt đèn màu đúng bon cho nó ăn rập. “Còn ta... Ta phải chịu bấy nhiêu điều đau khổ cay đắng như dày vò như cấu xé cho tan nát mảnh tơ (ơơờ)... lòng!” (Phựt đèn!) Ủa, bộ tưởng vậy mà hổng phải vậy hả? “Còn tôi thì đang đứng trên biển văn chương mênh mang chưa thấy đâu là bờ bến, đường đời cũng dở sống dở chín, chưa đâu tới đâu, hai vai không trọn vai nào” (tr. 56) “Chưa thấy đâu là bờ bến”? Bộ bỏ quên ống dòm ở nhà rồi hả Tư? Mà cũng nên coi chừng và bảo trọng lấy thân mình nghe Tư. Cứ đứng hoài trên biển văn chương thì bảo đảm sẽ bị dính mực tèm lem. Và hơn nữa sẽ còn bị ướt hết quần áo rồi cảm lạnh, ách xì nhảy mũi um sùm đó nghe.
Khi làm cái nghề đi biển hết sức phiêu lưu, thỉnh thoảng Tư cũng kiếm người thân để trút bớt bầu tâm sự, xả bớt ra một đôi lời cho nó nhẹ nhàng... (quá trời mây!) Đó là Lời cho má của Tư. Thỉnh thoảng về quê thăm má, Tư than thở “làm cái nghề viết văn cô độc, cực khổ quá má ơi”, má tôi lặng lẽ buồn hiu. Buồn vì không hiểu văn chương, không thể dìu dắt, nâng đỡ tôi trên con đường nhọc nhằn đó, nhưng má không hay rằng má giúp tôi nhiều lắm” (tr. 155) Tư hằng tin như vậy. Và sẽ vẫn còn vững tin như vậy nữa, tin triền miên, tin dài dài, lòng tin không hề hao hớt đi theo ngày tháng. Tư luôn luôn tin rằng “Vẫn còn những ngày dài phía trước, mai tôi sẽ về thưa với má, dù tôi nói câu này hơi trễ tràng nhưng có còn hơn không, rằng chưa có bao giờ má tôi dạy tôi viết văn, nhưng những gì tôi viết ra đều mang hơi thở cuộc sống mà má trao tặng” (tr. 158).
Ai cũng có một bà mẹ để mà ôm ấp, để mà thương, để mà nhớ. Đối với tôi, tiếng “má” gợi hình ảnh những “bà già quê hương”, những bà già có làn da nhăn nheo thơm tho mùi đất, có bàn chân nứt nẻ phù sa, có trái tim từ bi vô lượng, trái tim đó đã bơm máu vào cuống rún tôi từ lúc tôi còn nhỏ xíu, lớn chưa bằng đầu ngón tay. Má tôi là một trong những bà già quê hương đó.
Nắng Hậu giang mưa Tiền giang
Nắng mưa mưa nắng chín mùa màng
Vòm cao tre trúc nghiêng nghiêng bóng
Trâu nghé lim dim núp nắng chang
Đối với tôi thì là vậy. Nhưng đối với Tư, tiếng má gợi lên hình ảnh gì? “Má tôi là nông dân, suốt quãng thời gian cầm bút, mỗi khi tôi viết về người nông dân tôi lại nghĩ tới má. Trong tôi hiện lên một khuôn mặt sạm đen nửa đêm thao thức, nghe gió về lo lúa đang trổ ngoài đồng bị lép hạt” (tr. 154). Mà đâu phải chỉ có lo suông vậy thôi. Má làm quần quật cả ngày. Làm từ sáng sớm tới trưa, từ trưa tới chiều, từ chiều tới sẫm tối. Có khi ban đêm cũng làm luôn. Làm ruộng, trồng rau, tưới rẫy, làm giàn cho dưa leo, mướp, đậu rồng, xới đất, lên giồng, xách nước... Bấy nhiêu công việc đó theo ngày tháng đã dần dần biến hai bàn tay má trở thành “cục mịch, với những đốt xương thô mà sàng gạo như múa trong trưa vắng (...) Kẽ tay má đầy những mảng nước ăn, đau nhức tới từng đốt xương sao má không than hả má?” (tr. 154/155). Đã là dân quê mà lại còn làm ruộng thì tới mùa cày cấy, má phải lội bùn, lội nước vô cùng vất vả. Lội năm này qua tháng nọ. “Đôi chân ấy từ mười tuổi đã biết khóc. Chân má ngắn, ngón ngắn, chỉ rộng bề ngang nên nhìn nó to bè bè” (tr. 182). Ngó thấy bàn chưn má sần sùi nứt nẻ Tư cũng xót ruột lắm. Thỉnh thoảng Tư bỏ ra chút thơì giờ để chăm sóc cho má. “Lâu lâu, như buổi tối nay, tôi nơ chân má lên cắt móng cho má, lại thấy móng dày thêm sớ, phèn che bít cái phần hột gạo đục ở trong, vàng hoe hoe vàng. Dưới gan bàn chân, chai nhiều chỗ, phía gót thì nứt nẻ như đồng khô mùa hạn. Gió trở bấc, chỗ nứt tứa máu, lại nứt sâu hơn” (tr. 182/183). Hồi nhỏ, tôi không để ý coi bàn chưn má tôi ra làm sao, nó có trần ai như vậy không. Chớ bàn tay đục đẽo của ba tôi thì ly kỳ lắm! Ô dề kịch cợm thì chẳng nói gì. Đằng này, móng tay của ba tôi nó dày mo, không có kềm đục nào mà cắt cho nổi. Chỉ còn nước lấy cưa thợ mộc ra mà cưa vòng vòng – như người ta cưa sừng nai vậy đó. Mạt cưa và móng tay rớt ra cả đống. Chịu thua ông già!
Quanh năm suốt tháng loay hoay với lúa gạo nên má Tư gắn bó cả cuộc đời mình vào cây lúa. Theo má tin, “lúa có linh hồn. Không biết má trao cho đám lúa còn non nớt kia bao nhiêu tình thương yêu, bao nhiêu hy vọng (...) Bà có tình thương yêu ruột ràng vào cây lúa, bà tin tưởng mạnh mẽ vào kinh nghiệm nắng sương mấy mươi mùa ròng rã của mình. Để coi, tính mùa này nữa, má tôi làm ruộng suốt 38 năm” (tr. 180). Ba mươi tám năm má gieo mạ, má trồng lúa, má chăm sóc lúa, má gặt lúa, má gánh lúa, má đập lúa, má tải lúa... Cực quá là cực! Bởi lẽ đó mà suốt nhiều năm qua, má chỉ mơ ước có mỗi một cái máy vừa gặt lúa vừa đập lúa. “Khi mà đồng đất đã biền biệt bóng trâu, bạn chịu khó đẩy xuồng trên ruộng cạn, tải từng bó lúa như ba má tôi dưới nắng hè. Má tôi đã bao nhiêu năm rồi đẩy vơi vơi trời biển” (tr. 181). Làm nông dân cả một đời cực khổ, má sống chết với ruộng, với lúa, với từng hột gạo. Bởi lẽ đó, khi nghe ông Y thâm lạm chục ngoài tỉ, má buồn khủng hoảng luôn. “Quen nết nông dân, bà tính, được số tiền đó bà phải làm ruộng chắt mót suốt... đời. Lúa rẻ rề, một giạ vài chục ngàn, mấy ông “ở trển” làm mất tính ra hàng tỉ tỉ giạ chớ ít đâu” (tr. 183). Hàng tỉ tỉ giạ bị thất thoát! Còn ai bụng dạ nào mà tiếp tục sống chết nhọc nhằn với lúa, tiếp tục nghèo xơ nghèo xác, tiếp tục lặn lội năm này qua năm khác, mùa này qua mùa khác, rốt cuộc nghèo vẫn hoàn nghèo.
Nhưng má chỉ nhọc nhằn có một mình ên má thôi sao? May mắn thay, má có một đứa con gái chí hiếu và đảm đang số một. Tư đã từng sát cánh theo má lặn lội vất vả, khổ “cực trần ai khoai củ” trên khắp các kinh rạch, để đi bán gạo bằng xuồng. Có khi kinh rút nước, lạch cạn teo chỉ còn lại bùn. Vô phương bơi xuồng. Bèn nghĩ ra cách tải gạo tải cám bằng xe đạp. Tư rành cái vụ này lắm! Đủ thứ sáng kiến. Nhưng “ai khen tôi giỏi lòng má tôi cũng đau, vì đã để tôi dang dở con đường học tập”“ (tr. 157). Rồi có lần Tư theo má đi mua so đũa về để bán lại ngoài chợ quê, cũng vẫn bằng xuồng. Khi về xuồng phải vượt qua một con đập. Nhằm lúc mưa nhiều, đập xả nước kinh tràn ra như thác, lăm le nhận chìm chiếc xuồng khẳm lừ. “Má chống chỏi đằng lái, tôi nhảy ào xuống nước nắm mũi xuồng kéo đi, qua đập, ướt như con chuột, má khen tôi giỏi mà sao nước mắt má rươm rướm vậy?” (tr. 156).
Thấy người ta đi theo chủ trương chuyển dịch sản xuất, nuôi tôm kiếm được nhiều tiền quá, má cũng muốn chuyển sang nghề nuôi tôm để thử thời vận. Nhưng rồi “bão tôm” thổi tới, tôm chết như rạ. Tuy nhiên, má cũng vẫn cứ thử nữa. Thử nữa, năm này qua năm khác, và Chờ đợi những mùa tôm tới. Bởi lẽ “Má và con tin rằng, dù lần lữa rồi thì những mùa tôm sẽ tới. Nó sẽ tới để thay đổi số phận, cuộc đời mỗi người (...) Những con người lam lũ cực nhọc cả đời xứng đáng được trả côn” (tr. 122). Với tấm lòng ngay thẳng quê mùa chất phác suốt cả đời mình, má luôn luôn hằng tin như vậy. Vái trời cho niềm tin của má trở thành sự thật trong tương lai. Một tương lai thiệt gần, trong lúc má hãy còn sống. Còn sống để cho con kịp về thăm.
Con cũng muốn về thăm lại má
Thăm dòng sông Hậu nắng lưa thưa
Có cây dừa lão thân gầy quá
Đứng khóc theo mùa con nước đưa... [3]
Cám ơn Tư đã ân cần dẫn dắt tôi về thăm lại miền đất Hậu giang, nơi Tư và tôi đã sinh ra và lớn lên một thời. Cám ơn Tư đã đưa tôi tới thăm Ngọn đèn không tắt ở cái Xóm Rạch nhỏ nhít, đưa tôi đi đón Giao thừa trong một chợ tết còn ngổn ngang dưa hấu và hoa xuân. Tư cũng đã dắt tôi lội bộ rã chưn băng qua Cánh đồng bất tận. Và cuối cùng Tư đã đưa tôi tới gặp gỡ bà con mình trong Tạp văn để thấu hiểu và cùng chia sẻ những nhọc nhằn, những khó khăn mà người nông dân tay lấm chân bùn phải đối đầu trong cuộc vật lộn với những bất trắc của thời tiết, của đời sống, của mưa gió từng mùa, từng năm, từng tháng, từng ngày. Đi với Tư trong chuyến viễn du, tôi cũng đã có dịp khám phá lại những trận nắng Tiền giang rát da, và những cơn mưa Hậu giang rượi mát. Cám ơn Tư, cám ơn Tư.
Trong cuộc hành trình này, tôi chợt nhận ra giữa Tư và tôi có nhiều điểm tương đồng. Tư thương loài vật, tôi cũng thương loài vật. Tư có vịt xiêm Cộc, con vịt mù, và chim bìm bịp. Tôi có vịt xiêm Đại bàng, em vịt vàng nhỏ và một con chim sáo rất khôn, lần nào cũng bay xuống đậu lên vai lúc tôi đi học về. Tư có bà mẹ quê với bộ mặt sạm đen và bàn chưn chai nứt. Tôi có bà già quê hương với nụ cười tre trúc và bàn chưn nứt nẻ phù sa. Và còn nhiều thứ nữa, như viết văn, như lo chuyện trên trời dưới đất, như nhớ sông nhớ nước, như thương cây mắm tiếc cây bần chẳng hạn. Không thấy Tư nói về những mối tình đầu hay tình cuối của mình. Còn tôi, tôi có Hoa, nụ hôn đầu tiên bên bờ sông Định tường. Tôi có Tuyết, người tình quán nước Tiền giang thuở học trò, người con gái đã cùng tôi chia sẻ những nhục cảm đầu đời, hoan mê, chết giấc.
Nhờ Tư, thình lình tôi sực nhớ lại hết những người đã ân cần dìu dắt tôi đi suốt một quãng đường dài đầy bất ngờ, cho tôi nhận ra rằng, dù tôi có vấp ngã nhiều lần, cuộc đời này vẫn hết sức vồn vã, hết sức nồng nàn, hết sức đẹp đẽ. Những người thân, những cô gái đã cùng tôi chia sẻ một thời những cuộc tình hừng hực, những mái nhà ấm cúng, những bữa cơm đạm bạc, những vui buồn lớn nhỏ, giờ đây đã nằm sâu trong lòng đất. Lần nào về thăm quê hương, tôi cũng cố lặn lội đường sá trắc trở để được tới quỳ lạy và thắp một nén nhang tưởng niệm trên mộ ba má mình. Nhưng mộ của Tuyết, tôi không biết nó nằm nơi nào, và cũng chưa hề một lần tới thăm. Trải qua biết bao cuộc binh đao ngụt trời lửa sắt, biết bao cuộc tang thương vật đổi sao dời, ngôi mộ vùi chôn thân thể dấu yêu một thời ôm ấp, giờ đây chắc chỉ còn là một nấm đất mòn lạng hoang tàn...
Mưa Hậu giang nắng Tiền giang
Nhiều đêm không ngủ dạ mơ màng
Nhớ người nhớ đất mùi quê cũ
Ôi nắng Tiền giang mưa Hậu giang!
Bagnolet, ngọai ô Paris
Tháng mười 2007
Kiệt Tấn
[1] thơ Huy Cận
[2] thơ Tú Xương
[3] thơ Lâm Hảo Dũng
phù sa nước đục khó dòm
nhớ anh em khóc đỏ lòm con ngươi
Nắng Hậu giang mưa Tiền giang
Nhìn nhau mà lệ rớt hai hàng
Câu ca vọng cổ chìm trong tối
Mùi mẫn còn rung dưới nguyệt tàn
Từ Ngọn đèn không tắt qua đến tập truyện Giao thừa, Nguyễn Ngọc Tư đã bỏ bớt được tính chất học trò trong cách kể chuyện và ngay cả trong lối viết. Tư trở nên già dặn hơn. Truyện kể cũng đơn giản thôi, nhưng mạch lạc hơn. Tập Giao thừa gồm 17 tựa truyện cho 161 trang. Thể văn nói chuyện linh hoạt tự nhiên, không cường điệu ồn ào. Văn gắn bó với đời sống, chơn chất, không sần sùi ngổ ngáo như lối viết “mới” hiện nay. Cách nói thành thật hiền hòa, không xốc táp ngang ngược. Người đọc không thấy ở Tư cái cố gắng “làm văn chương”, không có những câu văn thời thượng, trau chuốt, không có những kiểu nói om sòm mà rỗng tuếch. Bình dị. Đơn giản. Dễ hiểu. “Có sao nói dậy”. Vậy thôi. Mà tại sao phải nói rắc rối? Nhiều khi nói rắc rối là nhằm để che đậy một sự trống rỗng, một cái dốt đặc nào đó ở mình. Cho nên phải “rắc rối hết cỡ nói!” cho thiên hạ tá hỏa và phục lăn? ”
Trong tập Giao thừa, phần lớn bài viết có truyện – có chút truyện, hay gọi là… Đôi khi bài viết được dựng lên quanh một chi tiết, quanh một tình cảm thương ghét, quanh một quyến luyến, một quan tâm, để ý, “có cảm tình” giữa các nhân vật trong truyện. Chẳng hạn: Giao thừa, Bởi yêu thương, Chuyện vui điện ảnh, Hiu hiu gió bấc, Một mối tình, Nhớ sông…
Đọc vài ba truyện khác nhau, có cảm tưởng Tư mê cải lương, mê điện ảnh, và cũng có thể là mê làm đào hát luôn không chừng (?) Có gì mà lấy làm lạ? Đã làm dân miền Nam mà không biết mê cải lương, không biết mê vọng cổ là một thiệt thòi lớn! Truyện Bởi yêu thương nhắc tới gánh hát rã khiến cho người đọc ngậm ngùi. Hồi xưa, nhà tôi ở cạnh rạp hát nên tôi cũng đã từng chứng kiến hai ba gánh hát cải lương nhỏ rã gánh tại chỗ vì trời mưa ế khách. Rồi đào kép, hề diễu, người đờn, con nít lân la đi xin cơm ăn trong xóm. Nhưng cũng nhờ láng giềng cô bác thương tình nên không một ai bụng đói. Tình nghĩa đùm bọc đặc thù của người miền Nam. Mưa Tiền giang nắng Hậu giang. Những tay hảo hớn sống ngang tàng. Trái tim hào hiệp bao trời đất, Bốn biển anh em rượu rót tràn...
Ngoài mê cải lương, còn có cảm tưởng Tư bị ám ảnh bởi tên gọi của các nhân vật. Những cái tên trở đi trở lại trong nhiều truyện khác nhau, như Ông Chín, San, Xuyến, Điệp, Diệu, Giang... Tưởng chừng như những nhân vật đó có thật trong đời sống. Họ bị phăng cuốn trong dòng đời bất cưỡng, quanh quẩn trong rạch ngòi Hậu giang chằng chịt, nay được Tư phân cắt thành những mẩu truyện ngắn. Biết đâu chừng khi nối liền hết lại, những mẩu truyện ngắn này sẽ kết hợp thành một truyện dài mạch lạc, một bức tranh đời éo le, lâm ly, ngang trái.
Còn một thứ không thể nào thiếu được trong tất cả các truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là sông nước: sông bốn phía, nước tư bề! Quơ chỗ nào cũng đụng nước, ngó chỗ nào cũng thấy sông. Nước là nền, sông là dòng cho ngòi bút của Tư triền miên tuôn chảy, cuốn theo những chữ nghĩa đầy ắp tình người như phù sa lợn cợn. Sinh đẻ ở miệt Hậu giang, gắn bó với cuộc đất Cà Mau như Tư thì cũng không thể nào khác hơn được. Dứt sông là dứt hơi thở, cạn nước là cạn máu huyết. Là mất hết cái lẽ sống còn. Tư đặt tựa truyện: Dòng nhớ (tr. 47). Nhớ gì? Nhớ sông (tr. 154). Nhớ sông, nhớ nước, nhớ da diết, nhớ dai dẳng, nhớ muốn khùng, nhớ muốn điên. Nhắm mắt vẫn thấy, hôn mê vẫn thấy. Thấy hoài thấy hủy.
Truyện Dòng nhớ: Một người đàn ông (gọi là ba) trốn nhà theo chung sống với một người đàn bà (gọi là dì) trên ghe thương hồ. Hai người có con với nhau, nhưng rủi ro đứa con nhỏ bò lọt sông chết chìm. Người đàn ông nghe theo lời má, bỏ sông lên bờ cưới vợ khác (gọi là má). Và tiếp theo đó, thỉnh thoảng dì trở lại neo ghe trên bến cũ để ngóng ba, người chồng giờ đây đã vuột khỏi tầm tay mình. “(...) chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được” (tr. 51). Cắm sào thì cắm sào, đậu bến thì đậu bến, nhưng “người ta nhớ thương đứt ruột có thể chạy ào lại để gặp nhau, nhưng vì lương tâm không làm được, đành ngồi đây ngó lên, ngồi ở trên ngó xuống” (tr. 56)
Còn người đàn ông trên bờ cũng không ngớt ngóng ra sông mà nhớ người thuở trước. “(...) đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạt kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông” (tr. 50). “Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia” (tr. 51) Tâm can rời rã, tuy có mặt đó mà cũng đồng thời vắng mặt: “Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi” (tr. 50)
Bằng lối viết dung dị, Tư đã làm bật sáng lên được cái tương tư của hai người tuy cách mặt nhưng không xa lòng. Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm, Vạn lý sầu lên nối tiếp mây…[1] Cái thương nhớ tơi bời hiện lên theo từng hình ảnh rõ nét, khắc khoải theo từng chữ viết dung dị mà đúng tận tâm can.
Rồi người đàn bà bỗng dưng bỏ bến sống đi biệt, không còn bao giờ trở lại bến xưa cắm sào mong ngóng nữa. Và cuối cùng người đàn ông chết trong mong đợi, thi thể vùi chôn ở vườn nhà. Người vợ cho dù có hờn ghen hừng hực cũng thấu hiểu được tấm tình khắng khít giữa ông chồng bền lòng và tình địch bền dạ của mình. “Má tôi vẫn không ngừng tìm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được, chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôi” (tr. 57). Người đàn bà muốn giúp cho chồng mình chấm dứt dòng nhớ. Nhưng liệu được chăng khi dòng sông vẫn còn đó, con nước vẫn trôi hoài, vẫn trôi xa tắp về miền bất tận. “Đó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy” (tr. 57).
Những dòng sông… Ôi! Những dòng sông… khiến chợt nhớ thơ Nguyễn Bính: “Sông đụng đâu sông, sông gặp sông, Thuyền xuôi theo nước, nước theo dòng. Người về người gặp quê người đó, Ta gặp ai đây giữa bụi hồng?”
Và những dòng sông, những dòng nhớ của Tư vẫn cứ tuôn chảy miệt mài, len lỏi trong khắp cùng ngõ ngách Hậu giang. Cuối cùng, dòng nhớ biến thành một nỗi nhớ mong khắc khoải: Nhớ sông, bài viết chót trong tập Giao thừa. Mà không nhớ sao được, khi cả cuộc đời ba, cả cuộc đời má, cả cuộc đời hai con mình đều gắn bó bền chặt với sông nước. “Bây giờ hỏi lại, Giang nói không có con kinh, con rạch nào mà ghe chưa đi qua, không có đường ngang ngõ tắt nào mà ông Chín không biết. Xuôi dòng, ngược dòng, con nước kém, con nước rong... Không ai nói với ai, nhưng cả nhà ông đều nghĩ, chắc là sống như vầy hoài, như vầy mãi thôi. Chị em Giang đùa nhau, sau này lấy chồng ra riêng, ba cho mỗi đứa một chiếc ghe” (tr. 156)
Giang tự nó nghĩa là sông, cái tên như một định mạng trói buộc từ đời nào với rạch ngòi. “Giang không hiểu sao mình nhớ hoài, nhớ ràng ràng cái ngày đó. Cho nên qua vàm lần nào, Giang đều kéo con Thủy ra, Giang chỉ, má chết chỗ này nè” (tr. 156). Má trợt sào té đầu đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe, rồi cả thân người hụp vào lòng sông, chìm lĩm. Vợ chết, ông Chín vẫn tiếp tục chở hai đứa con gái đi bán hàng bông xuôi ngược trên khắp các ngả sông ngòi. Thủy mê đất từ hồi nhỏ, từ thuở còn bồng. “Giang nhắc, ờ phải em ham đất lắm, hồi nhỏ ghe đậu bến nào chế cũng coi em bắt mệt, cứ xoay lưng là em chổng mông cạp đất ăn ngon lành” (tr. 159). Chế là tiếng Tiều châu để gọi chị mình.
Rồi cái mộng ước định cư trên đất liền của ba đã (hay gần như) trở thành sự thật: Giang lên bờ, lấy chồng tên Thuấn ở Đập Sậy, có đất làm ruộng. Những tưởng một khi đã lên bờ định cư rồi là quên được sông. Nhưng liệu quên được không? Thỉnh thoảng ông Chín ghé qua nhà Thuấn thăm con gái và nhậu tì tì với thằng rể tốt bụng. “Ghé Đập Sậy, Giang đòi ông Chín ở lại một đêm, cho Giang xuống ghe ngủ với con Thủy. Giang than nức nở, “Trời ơi con nhớ ghe quá trời đất đi”. Xuống ghe, Giang đưa tay rờ rẫm từng món hàng, từng miếng sạp” (tr. 157). Rưọu vô ngà ngà, Thuấn than thở với ông già vợ của mình: “Thường thì cơm nước, quét dọn xong, để hở ra giờ nào Giang lấy xuồng chèo đi giờ ấy. Trời đất, nó đi đâu? Thuấn cười chua chát, “Hổng biết, nó chèo khơi khơi vậy đó ba à, con cũng nghi bậy trong bụng, có bữa con rình đi theo, vợ con chèo đã đời rồi nó buông chèo lủi vô đám lá, lấy tay vịn, ngồi ở đó. Rồi chèo về, vậy à” (tr. 158).
Trời ơi! Nhớ tới nước này thì phải gọi là ghiền mới phải. Nhớ sông! Hay là ghiền sông, ghiền nước, ghiền bơi, ghiền chèo, ghiền cái mui ghe, ghiền cái sạp nằm, ghiền con sóng lăn tăn, ghiền dòng phù sa ngầu đục, ghiền tiếng nước khua bì bõm? Mà một khi đã ghiền tới mức này là kể như hết thuốc chữa. Chỉ còn nước trả Giang lại cho sông nước mà thôi.
Xếp quyển Giao thừa lại, người đọc tự hỏi Giang có phải là người con gái thứ tư trong một gia đình nào đó ở miệt Cà Mau xa mút tí tè, nơi tận cùng đất nước: Cô Tư. Tư. Nguyễn Ngọc Tư, cô gái Hậu giang có cái nhìn hiền hậu, có nụ cười thắm thiết và nước da bánh ít mặn mòi?
Mưa Hậu giang nắng Tiền giang
Cô em kẹp tóc bịt răng vàng
Cẩn tim xanh đỏ càng quê lắm
Mắt liếc khua theo guốc rộn ràng...
Mưa Hậu giang nắng Tiền giang
Bến sông san sát những nhà sàn
Võng trưa kẽo kẹt em tôi hát
Gió đưa bông thắm nở về chàng
“Ầu ớ… Gió đưa gió đẩy bông trang, Bông búp về nàng bông nở về anh… Ầu ơ…” Nhà sàn, loại nhà nửa trên bờ nửa dưới nước, dựng trên những chưn cột rắn rỏi đóng chặt xuống lòng sông, sàn lót bằng ván. Nhà sàn rất phổ thông ở vùng sông nước đồng bằng Cửu Long, như Bạc liêu, Cà Mau, Cần thơ, Vĩnh long, Mỹ tho…
Mãi đến khi bước chân vào Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư, Trăm năm bến cũ con đò tôi mới bắt gặp lại được chiếc võng đưa và mái nhà sàn ở miệt phù sa của Tư. “Cửa sau nhà tôi trông ra sông. Tôi thường ví đó là một khung tranh, có lúc nó hiện lên những chiếc tàu cao nghệu, hùng hục đi qua, che khuất cả dãy nhà sàn bên kia sông…” (tr. 163)… “Chỗ tôi ngồi có chiếc võng con giăng ngang căn chòi de ra mép nước” (tr. 165). Nhà sàn còn đó, con đò còn đó, võng giăng còn đó, mà tiếng “ầu ơ” ru em đã vỗ cánh bay đi mất biệt tự lúc nào. Có lẽ kể từ sau năm 75, kể từ lúc Tư chào đời và ngủ đưa trên võng, không còn ai nhớ hát ru con bằng những câu ca dao “ầu ơ ví dầu” nữa.
Thời tản cư ở Bạc Liêu, lúc tôi 5 tuổi, ghe ba má tôi trôi giạt xuống tận vùng Đầm Chim, Đầm Dơi. Thỉnh thoảng ba tôi nhắc tới tên sông Trèm Trẹm ở miệt Năm Căn, tôi không nhớ rõ mình đã có lần đi qua con sông đó hay chưa. Cho tới lúc Tư bơi xuồng ba lá đưa tôi đi thăm chợ nổi ở Cà Mau, tôi mới biết chắc là mình đang thả trôi trên dòng sông Trẹm. “Giữa chợ nổi Cà Mau, cảm giác như gặp được những khu vườn của miệt sông Tiền, sông Hậu, như nhìn thấy những rẫy khóm, rẫy mía miên man dọc trên miền sông Trẹm quê mình” (tr. 136). Ở Bạc Liêu, Cà Mau, rất đông người Triều châu chuyên nghề làm rẫy – với những tiếng gọi nhau rất là chệt “Tiều”: tỉa, hia, chế, số, tùa củ, tùa nứng… (Nói Quảng nói Tiều!) Sông Trẹm, dòng sông ngầu đục đã chảy vào rẫy thơ của Lâm Hảo Dũng thời chinh chiến “Ấy dòng sông Trẹm xưa nay, Còn thương cây mắm rễ cài trên không. Lênh đênh em một chiếc xuồng, Đời tôi lính trận cỏ bồng chân mây”. Đời trai thời loạn. Một cuộc binh đao. Một cơn máu lửa tơi bời. Bao nhiêu người đã vĩnh viễn nằm xuống trên xứ sở tang thương vì bom đạn? “Hận người con muỗi vo ve, Nên trong cuộc chiến bạn bè giết nhau. Ấy dòng sông Trẹm trôi mau…”
Hãy chậm dầm bơi lại để đi vào cái chợ nổi của Tư và bắt gặp Chút tình sông nước. “Nằm giữa lòng thành phố Cà Mau, quãng cuối sông Gành Hào, đứng trên cầu nhìn về phía mặt trời mọc, người ta có thể nhìn thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chổng lên loang loáng dưới mặt trời” (tr. 134). Tư thích nói về những cái chợ nho nhỏ họp nhóm chùm nhum ở miệt ruộng rẫy, những cái chợ chộn rộn đầy ắp tình nghĩa, thương mến, thân thuộc, nơi mà mọi người gần như đều biết hết mặt nhau. Chẳng hạn cái Chợ bên đường ở một làng quê hẻo lánh nào đó… “Như người phụ nữ chân quê, chợ nhỏ nhoi, hiền hậu, trầm tính dịu dàng (…) Buổi sáng sao mà dậy mùi thơm nồng hăng của rau húng lủi, húng cây, rau cần nước, cần rừng” (tr. 39) Nhưng gà vịt, cá tôm, rau củ trong vườn nhà bày ra đó chỉ để mong bán được, trả giá thấp cao, trông chừng, hoặc canh ngó thôi sao? Không, không! đâu phải chỉ có bao nhiêu đó. “Chị em chụm lại rôm rả với nhau chuyện chồng con, chuyện hàng xóm, ruộng lúa, vườn cây… (chuyện xóm quê mà, nói biết chừng nào cho hết)” (tr. 39) Khách từ phương xa tới và có dịp qua ngang chợ, hãy để ý. Hãy để ý cho tận tường, hãy ngó cho thiệt kỹ, hãy hít thở cho thiệt nồng nàn đi rồi sẽ thấy…
Nắng Tiền giang mưa Hậu giang
Xe lam về tới miệt Ba Càng
Ruộng khô thổi nóng lùa chưn tóc
Tóc em thơm phức mùi dưa gang
Nhưng liệu nói như vậy mà đã bày tỏ hết được tấm lòng của mình chưa? Chưa! Tư còn có thêm một cái chợ nữa: Chợ của má. “Tôi gọi những cái chợ ruộng dân dã này là chợ của má. Bởi nó hiền lành, lam lũ như má. Bởi chợ nhỏ nhoi, khiêm tốn như má, nhưng nó mang một cái hồn sâu, mênh mông lắm nên người ta nhắc nhở hoài, thương hoài như thương… má vậy” (tr. 151). Trong chợ của má, những người buôn thúng bán bưng là những ai? “Họ là những người gắn bó máu thịt với cảnh chợ quê này không chỉ vì mưu sinh mà là mối gắn bó thiêng liêng. Không có rau, không đi chợ, đâm… buồn. Có người lặn lội đi bán từng trái bình bát chín, không đủ tiền xe thì đi bộ, “miễn sao đỡ ghiền chợ” (tr. 153). Ở thành thị người ta ghiền quyền lực, ghiền tiền bạc, ghiền karaôkê, ghiền bia ôm, ghiền xăng nhớt, ghiền ma túy thì ở miệt ruộng rẫy này, người dân quê họ… ghiền chợ! Một loại ghiền rất tốt cho sức khỏe và càng thắt chặt thêm tình nghĩa xóm làng.
Đi vào thế giới Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư, người ta bắt gặp một trời một biển tình thương và gắn bó. Và cũng chính vì bởi gắn bó liền tay liền ruột với đất đai mà người dân quê phải gánh chịu biết bao là phũ phàng cay đắng, biết bao là nợ nần chồng chất, biết bao là thất vọng ê chề. Đôi ba người tự tử, rất nhiều người bắt buộc phải bán rẻ đất nhà mà ngậm ngùi bỏ xứ ra đi trong hờn tủi và nước mắt. Rồi sẽ thấy.
Tạp văn chia làm 35 tựa trải đều trên 186 trang. Cũng như trong ba tập truyện trước của Tư, trên trang nào của Tạp văn cũng bắt gặp thường trực chữ nghĩa và cách nói miền Nam, đặc biệt là miệt Hậu giang của Tư. Đếm không xuể, kể không hết. Bút pháp cũng vẫn là giọng văn nói duyên dáng nhuần nhuyễn và tự nhiên của Tư. Lối viết này tạo cảm giác thân quen, gần gũi. Tuy nhiên, cũng nên cẩn thận, chọn lọc kỹ và dùng chữ cho chính xác. Vì nếu cứ viết phóng túng đẩy đưa theo hứng khởi, lối “văn nói” sẽ rơi vào sự dễ dãi, cẩu thả, làm mất đi phần đóng góp cần thiết và quý giá của người viết: sự sáng tạo. Một khi sáng tạo mất rồi thì tính cách văn chương của bài viết cũng sẽ mất luôn, không còn lôi cuốn được người đọc nữa.
Hai thể loại Tư thường dùng nhứt là tùy bút và ký sự. Đề tài khá đa dạng: tiếc thương những vùng đất cũ, bàng hoàng trước những đổi thay sau “giải phóng”, lãng đãng những kỷ niệm về bạn bè ngày xưa, ám ảnh bởi cái nghèo xơ xác dai dẳng của người dân quê, phẩn uất trước thái độ tắc trách và nạn tham nhũng của cán bộ nhà nước. Cái tính chất văn chương ở các tập truyện Giao thừa, Cánh đồng bất tận đã phải tạm gác qua một bên. Cũng dễ hiểu thôi. Chạm trán từng giây từng phút với thực tế cam go, khắc nghiệt, gai góc, thử hỏi còn ai hơi sức đâu mà thẩn thơ vớ vẩn “Hôm nay trời nhẹ lên cao, Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Trong thời khắc hiện tại, người dân quê bắt buộc phải đối đầu với những khó khăn sờ sờ trước mắt và bắt buộc phải nhận thức “Hôm nay trời nặng lên cao, Tôi buồn “tôi hiểu” vì sao tôi buồn”! Đọc Tạp văn mới thấu hiểu được cái thực trạng thê thảm của người dân quê miền Nam sau “giải phóng”.
Bắt đầu Tạp văn là một cuộc hành trình trở lui về dĩ vãng, khi trời Trở gió. “Thoạt đầu, âm thanh ấy sẽ sàng từng giọt tinh tang, thoảng và e dè, như ai đó dứng xa ngoắc tay nhẹ một cái, như đang ngại ngần không biết người xưa có nhớ ta không” (tr. 7). Cơn gió gì mà lạ vậy? Và cứ hiu hiu như vầy hoài sao? “(…) bây giờ (nó) lớn thành một dòng gió, xấp xải, cuống quýt xốc vào tấm tôn bên chái đông đã bị đứt đinh từ mùa trước. Cồn cào. Nồng nhiệt. Mà thiệt dịu dàng. Ôi! Gió chướng” (tr. 7). Cơn gió chướng mùa trước , cơn gió chướng năm ngoái đã trở về thổi vào cõi lòng xốn xang của Tư những niềm nhớ không nguôi.
Tận cùng phương Nam đất nước, nơi mang địa danh Cà Mau, một mũi phù sa nôn nả lấn tràn ra biển Thái bình, Đất mũi mù xa. “Nơi ấy, những ngôi nhà đều không cửa, nhà mở toang cho gió nam vào, chướng tới, bấc qua, nhìn nhà là hiểu người, chân thật đến bày cả gan ruột” (tr. 11). Làm nhớ những ngôi nhà không cửa do chính bàn tay thợ mộc của ba tôi và anh hai tôi chung sức dựng lên ở Bạc Liêu, ở Vĩnh long. Một truyền thống Hậu giang còn giữ được. “Người Đất mũi sao mà hiền từ, mến khách thấu trời thấu đất vậy không biết, dường như sống giữa bao la trời, bao la biển này, người ta phải học cách thương nhau để khỏi cô độc” (tr. 14). Tùy bút Đất mũi mù xa của Tư là một bài viết vô cùng nồng nàn thắm thiết về phong tục và con người đất Cà Mau. Khiến nhớ muôn trùng.
Gió chướng còn đem về thêm cho Tư một nỗi nhớ khác nữa. Nhớ cái đầm nước mênh mông thuở trước, bây giờ đã xa. Xa đầm thị Tường. “Đầm Thị Tường là vùng đầm nước mênh mông với diện tích mặt nước hơn bảy trăm héc ta, quãng rộng nhất gần hai cây số, rộng tay mạnh dầm như dân xứ này, từ bờ nam sang bờ bắc mất hơn một ngàn lát dầm, từ bờ tây sang bờ đông nhìn mút mắt” (tr. 20). Người dân đầm Thị Tường chuyên sống bằng nghề đánh lú cá tôm. Mà cá tôm hồi thời trước thiếu gì, ê hề, ăn mệt nghỉ. Và một khi đã có mồi ngon rồi thì tất nhiên là phải có nhậu nhẹt. Cư ngụ chung quanh đầm là “những người hào sảng đậm đặc chất nam bộ. Đàn ông nhậu một mâm thì đàn bà cũng một mâm. Đàn ông say thì ca vọng cổ, (…) đàn bà say chỉ nhảy múa cho vơi hơi rượu đi” (tr. 24) Rất nhiều người từ đầm đã ra đi để thành lập những xóm nổi tiếng là kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thời trước. “Nguời dân móc ruột mình ra mà nuôi cán bộ, sống chết với cách mạng” (tr. 24) Sống thì không biết sao, chớ chết thì thấy rõ trước mắt. Chết để nuôi hy vọng cho những ngày mai tươi đẹp huy hoàng, chết trong niềm mơ ước một tương lai xán lạn rực rỡ cho con cháu mình mai sau, dĩ nhiên. Để rồi coi. Nhưng còn cái đầm? Đầm Thị Tường bây giờ ra sao? “Chuyện cá tôm nhiều vô kể quanh năm, chuyện một chiếc xuồng con với vài tay lưới có thể nuôi cả gia đình đã quá xa vời. Chuyện xuồng đi tới đâu cá nược đuổi theo đến đấy chỉ còn là cổ tích” (tr. 25). Phải. Cổ tích, nhưng mà là một cổ tích kết cuộc không có hậu. Buồn năm phút! Hay buồn năm ngày, năm tháng, năm năm? Buồn dài dài… Buồn mút mùa lệ thủy!
Nhưng khét tiếng chống Pháp và “chống Mỹ cứu nước” đâu phải chỉ có mỗi một mình cái Đầm Thị Tường. Còn một cái xã oanh liệt khác nữa. Nó là một trong ba xã vây quanh đầm. Ở đó cũng có toàn là dũng sĩ cứu nước, và toàn là bà già giết giặc hết trơn chớ bộ. Thiếu gì. Đếm không hết. Ở đâu? Thì ở Hưng Mỹ chớ đâu. Người dân Hưng Mỹ can trường và trung kiên số một. “Nhớ những người dân áo vá, tay lấm chân bùn nhưng một lòng theo Đảng, theo cách mạng. Nhớ hàng ngàn cái hầm đào dưới những vườn dừa bạt ngàn mà người Pháp người Mỹ không tìm được lối vào vì miệng hầm nằm trong trái tim mỗi cụ già, em nhỏ” (tr. 43) Đó thấy chưa? Nói có trật chút nào đâu. Tới em nhỏ cũng là “con nít giết giặc” luôn nữa, huống hồ là mấy bà già và mấy ông già!
Nhưng bây giờ thì sao? Xã Hưng Mỹ le lói tới mức nào sau cái ngày “giải phóng” năm 75? “Ba mươi tháng tư này nữa là tròn 29 năm hòa bình. Con đường quốc lộ về ngang qua xã vẫn ca hoài bài “Đường chỉ đẹp những khi còn… dang dở”. Xã có 3911 hộ, đã ngót 251 hộ nghèo, 13 ấp thì một ấp rưỡi chưa có lưới điện” (tr. 43). Chỉ tiêu mà đạt đến mức đó thì quả thực là cao cấp, còn thành tích thì hết sức là hoành tráng, vậy còn đòi hỏi gì nữa cơ chứ? “Bây giờ đất này còn nghèo hơn trước, cái nghèo lừa mị người xứ xa, lừa mị những ông quan kinh lý ưa kiểm tra lớt lớt” (tr. 44). Kiểm tra lớt lớt là kiểm tra như thế nào cơ chứ? Này! Định xúc phạm và phá hoại Nhà nước đấy phỏng? Nhà nước đang bù đầu để xử lý một vấn đề lớn lao và trọng tâm vô cùng là vấn đề giáo dục. Vậy thì yêu cầu đường sá, điện nước lẻ tẻ làm chi mà lắm thế? “Hỏi cô con gái tên Trang đã học tới lớp mấy rồi, cô cười, nghèo quá, mấy anh em em hổng ai biết chữ” (tr. 45) Không biết chữ thì phải đi học chữ lấy một mình. Nhà nước đâu thể học chữ giùm cho nhân dân được! Nhưng đâu phải chỉ có mỗi một cái “hổng ai biết chữ”. Hưng Mỹ còn có rất nhiều cái “hỏng có” khác nữa. “Hồi đó Thị Tường có “ba không”, không theo giặc, không bỏ Đảng, không bỏ cách mạng. Bây giờ thì “tùm lum không”. Không gạo, không tiền, không cá, không rau cỏ…” (tr. 47) Này này! Hết phá hoại Nhà nước, bây giờ còn định bôi bác chế độ đấy phỏng?
Tới đây xin mở ngoặc nói về một hiện tượng đang xảy ra ở đất nước ta. Khi đi karaôkê, kể từ Đà lạt ra tới Huế, ở đâu các em nhỏ hậu phương cũng đều xổ ra toàn là giọng miền nam. Ngay cả tiếng “Huệ” cũng lai giọng nam kỳ. Tò mò “hỏi người em nhỏ lạc loài từ đâu?” Em thì nói từ Chợ Gạo, Mỏ Cày, Bến Tranh, Chương Thiện… Em thì “thành thật khai báo với cách mạng”, em là em nhỏ Bến Tre, Giồng Trôm, Đồng Tháp, Cái Nhum… Toàn là những vùng ủng hộ kháng chiến ngày trước. Và toàn là gái miền Tây. Bật ngửa! Và khi em Chợ Gạo cất giọng mũi nhão nhẹt dân dã để lâm ly biểu diễn karaôkê thì vẫn cứ nhứt định là “anh cầm tầm vông vạt nhọn, em cầm dao phay sáng ngời, hai đứa mình phom phom chạy qua cầu khỉ quyết chí diệt thù, phất cao lá cờ cách mạng…” khí thế vô cùng hùng dũng. “Rằng quen mất nết đi rồi!” Cái “tiếng xấu” mà các cô gái miền Tây phải hứng chịu này, Tư cũng đã có dịp nói phớt qua trong Kính thưa anh nhà báo! Khi bạn bè hỏi em gái từ đâu đến, em gái đã chẳng đặng đừng, lí nhí, thẹn thò thưa thốt: “Thưa, em ở Cà Mau” (và tôi làm sao tránh được ánh mắt cười cợt, nghi ngại của người thị thành khi biết tôi là gái miền Tây)” (tr. 105). Đóng ngoặc.
Trở lại Hưng Mỹ. Lần này, sau khi đọc kỹ Ngậm ngùi Hưng Mỹ lần nữa, thấy ở đoạn kết Tư cũng có nhen nhúm lên một chút hy vọng trong lòng bà con ta đó chớ. “Nghe mấy ông thầy coi nước nói năm nay tôm tép khá lắm đây (…) Không biết có phải là những lời an ủi, vực nhau đứng dậy rồi bị đồn đại ra không, nhưng tôi biết ơn mấy ông lắm lắm, khi nhen lại cái khát vọng sống trong lòng người Hưng Mỹ. Ờ, sống để mà bước tới” (tr. 50).
Từ xưa đến nay, hy vọng vẫn luôn luôn là liều thuốc trị được bá bịnh – trừ bịnh ỉa chảy dĩ nhiên! Chú Hai sạt nghiệp vì đổi qua nghề nuôi vịt, nhưng ác thay, lại trúng nhằm mùa dịch cúm gia cầm. Nợ ngân hàng lút đầu. Vậy mà trong nhà vẫn không ngớt tiếng cười rộn rã. “Rầu cũng nghèo mà cười cũng nghèo, sao mình hỏng cười, hỏng hy vọng cho đỡ khổ hả cô?” (tr. 113) Chí lý! Thiếm Hai duy vật biện chứng Mác Lê như vậy rất là chí lý, nghe lọt lỗ tai hết cỡ nói. Dân Hậu giang ta bao giờ cũng lạc quan... hết thuốc chữa. Vì có sao đâu? “Lúa thất thì hy vọng trúng mùa sau, giá rẻ như bèo thì cứ đinh ninh năm sau sẽ được giá. Lứa này tôm chết thì chờ lứa sau, lúc thả bọc tôm nhỏ như cây kim xuống đầm, vẫn mong mai này còn gặp lại chúng” (tr. 113/114). Tư chợt bừng mắt trước một điều hết sức hiển nhiên – hiển nhiên tới mức người ta không để ý, như cái không khí mình đang thở chẳng hạn. “Tôi nhận ra rằng, nông dân mình xưa rày có món đặc sản “độc” lắm, nhờ món đó mà họ sống từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác. Đó là “hy vọng” (tr. 113)
Hết vớt tôm chết thì tới chôn vịt sống. Hết cúm gia cầm thì có liền “bão tôm” thổi tới “từ tốn, lặng lẽ, mà bào mòn sức chịu đựng của con người”. Lo gì! “Vớt từng con tôm nhỏ bằng ngón tay út lên lòng rưng rức, đứt ruột (...) Có ai làm gì nó đâu mà nó chết, mình quý nó còn hơn mạng mình nữa mà? (...) Má tá hỏa khi biết hầu hết tôm giống trên thị trường không hề được kiểm dịch” (tr. 118) Này! Đừng có vu oan cho Nhà nước nhé cô Tư! Nhà nước ta ngày đêm không ngừng lo lắng đào sâu giải pháp cho nhân dân. Nhà nước không ngừng quy hoạch, không ngừng chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Người khác chỉ rành có sáu câu, chứ Nhà nước ta thì rành tới sáu câu... rưỡi. “Người dân bao đời gắn bó với cây lúa bây giờ nôn nả cho nước mặn vào đồng để nuôi tôm” (tr. 99). Cũng hợp lý thôi. Cây lúa cần nhiều nước ngọt mà thu hoạch lại quá ít ỏi thì thay nước mặn vào! Còn chờ gì nữa? “Chỉ mới một mùa tôm (đầu) thôi, bác à, nhưng đó là mùa tôm người nông dân vùng chuyển dịch vắt kiệt mình ra trước bao nỗi cực nhọc, buồn vui” (tr. 116) Vắt kiệt? Cô đừng có quá nhời chứ cô Tư. Đã vắt kiệt rồi thì làm sao vẫn cứ còn vắt hoài được hoài? “Chuyện tôm chết nông dân đã rành sáu câu rồi, chỉ khác, đây là năm thứ tư tôm chết, nghĩa là năm thứ tư nông dân Cà Mau vắt kiệt mình trong nỗi lo đói nghèo” (tr. 108). Năm thứ tư? Tội nghiệp quá nhỉ? Nhưng ba bốn năm nay chịu đựng nổi, chắc bà con nông dân ta vẫn hãy còn đủ hy vọng để mà lướt qua năm thứ năm. Và không chừng còn “dư sức qua cầu” luôn năm thứ sáu.
Mùa “bão tôm” từ tốn và nạn tôm chết hà rầm dàn trải lê thê trên nhiều bài viết của Tư trong Tạp văn: Ngậm ngùi Hưng Mỹ, Thư từ quê, Đi qua những cơn bão khô, Chờ đợi những mùa tôm, Gió mùa thao thức... Trong cảnh cùng quẩn, người dân quê ngước nhìn lên “trên” để mong cứu giúp. “Trên” đây không phải là “trên Trời” hay “ơn Trên”, mà là “ở trên”. Rồi “ở trên” mới ra tay ban phép mầu ra làm sao? “Mấy ông Nhà nước không nghĩ ra cách nào cứu tụi tui, để vầy hoài, hai năm nữa không chết đói cũng chết vì trộm cướp cho cô coi, bần cùng sanh đạo tặc, ông bà mình dạy vậy” (tr. 108) Làm gì mà lo xa quá vậy? Mới chỉ có bấy nhiêu đấy thôi mà bà con đã kêu trời như bộng! Cũng tại bà con hết đấy chứ. “Báo chí than bà con mình thiếu thông tin, thiếu hiểu biết rầm trời, các chú “ở trên” nhằn, bà con mình nóng vội quá” (tr. 118) Thì lỗi tại bà con rành rành đây này! “Thuở đời nay, năm nào mấy ổng cũng lên ti vi kêu năm này phấn đấu đạt năng suất cao hơn năm trước, khuyến khích giống mới này trúng hơn giống cũ, vậy mà làm ra hột lúa trần thân, bán không có giá, mấy ổng đổ thừa tại nông dân làm cho cố mạng nên bán không được” (tr. 184) Nhưng đổ thừa như vậy cũng đâu có trật. Làm chi mà làm cho cố sát, ai mà ăn dộng cho hết. Hơn nữa, bây giờ bà con ta lại còn bày đặt “phấn đấu” với lại “năng suất” năng siết rùm beng. Hồi xưa ở Cờ Đỏ, má tui cũng có một thời cày thuê cấy mướn, nhưng đâu có biết “phấn đấu” với “năng suất” là cái khỉ mốc gì! Vậy mà vẫn có gạo ăn hoài hoài.
Bà con cứ đòi hỏi Nhà nước phải có bổn phận đối với nhân dân. Chớ còn cái bổn phận của nhân dân đối với Nhà nước bà con để nó ở đâu? Bộ quăng nó cho chó ăn hết rồi hả? “Khi đôi bàn tay gầy guộc của tôi vuốt lại những tờ bạc lẻ nhàu nát lem luốc mồ hôi, dầu nhớt... để nộp thuế cho đằng phường, nghĩ tới mấy vụ tham nhũng động trời ngay tại quê mình, nghĩ tới những bữa tiệc vung vinh tiền triệu, chắc cái mặt tôi buồn hết biết, mà tôi còn khóc, hổng chừng...” (tr. 166) Thôi mà Tư! “Lau mắt đi em, đêm đã khuya rồi, buồn chi nữa em?” Tư hãy bắt chước cái lạc quan kinh niên của má mình. “Ai biểu làm nông dân làm chi. Chỉ hy vọng mấy ông “ở trển” làm cách nào cho dân bớt khổ, má tôi nhấn mạnh, bằng cái giọng hết sức tin tưởng, “Mấy ổng hứa rồi...” (tr. 185). Đó thấy chưa! Ngày nào mà mấy ổng còn hứa thì bà con ta vẫn còn có “quyền” hy vọng. Hy vọng dâng cao, hy vọng miên man, hy vọng tràn trề, không biết để đâu cho hết. Vậy thì bà con còn than cái nỗi gì? “Thôi thôi... Đủ lắm rồi! Xin đổi giùm cho tuồng khác. Thành thật cám ơn đồng chí”.
Khi bị vây kín bốn bề bởi những khó khăn của đời sống, người ta thường có một phản ứng rất tự nhiên để bảo tồn lấy mình: chạy trốn! Bỏ đi nhậu, đi karaôkê, đi du lịch. Hoặc coi phim bộ, đi ăn tiệm, đi gặp gỡ bạn bè, nói chuyện tào lao, đàn đúm ca hát. Nếu không làm gì được hết thì người ta chạy trốn thực tại bằng cách lùi sâu vào cõi không thực. Thả hồn về những kỷ niệm đẹp ngày cũ. Về những ký ức có bóng mát cỏ cây, có tiếng nước vỗ lách tách, có tiếng lá khua tâm sự rì rào. Về những dòng sông thương nhớ, về những đò xưa bến cũ, về những cuộc tình dang dở bây giờ đã mây trôi...
Nắng Tiền giang mưa Hậu giang
Sông Mỹ đò đưa bến Vĩnh Tràng
Bên chùa tôi đã ôm em siết
Xa rồi còn tiếc chuyến đò ngang
Cái phản ứng để tự vệ của Tư trước những bức bách của đời sống cũng vậy thôi. Trong đời Tư cũng đã từng có những dòng sông cũ, những bến đò xưa, những Trăm năm bến cũ con đò. “Trăm năm để lỡ hẹn hò, Cây đa bến cũ con đò khác đưa”. Một bến đò cũ nào đó để Tư thả hồn mình về đó nổi trôi, hầu dìm bớt đi những nỗi muộn phiền đang vây khổn tư bề. “Bến đò nằm cạnh nhà. Có thể nghe được tiếng bước chân người xoèn xoẹt lại qua, nghe mũi đò chạm lịch kịch vào bến, và tiếng chèo chém ngọt vào mặt nước những lát cắt dày. Và nhiều khuya nghe tiếng gọi đò xao xác (...)” (tr. 163). Rồi tự hỏi biết đâu chừng mình đã nghe lộn tiếng gì thành tiếng gọi đò của ai đó . “Đêm nghe tiếng ếch bên tai, Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”[2] . Khách đi đò cũng khác nhau lắm. Có khi là những người phụ nữ đi chợ sáng lấy đò trưa trở về bên kia sông. Có khi là đám học trò đứng ngồi lóc nhóc trên đò qua bờ bên này để tới trường. “Có người qua đò rồi quay về, có người không trở lại. Bến đò cũng là nơi nhiều đứa con gái qua sông lên thành phố rao bán mình trong những “chợ vợ”, để lại mấy thằng con trai chiều chiều ra bến đón đã đời mới ngơ ngác, trời ơi, mình đang chờ ai đây?” (tr. 166). “Chiều chiều chim vịt kêu chiều, Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau...” Dứt một cuộc tình. Tàn một đời trai. Rồi đời trinh nữ. Khóc đi em!
Dòng sông cũ, con đò xưa đã êm đềm đưa Tư lâng lâng vào Đôi bờ thương nhớ. Chiều qua, Tư nhận được thư của bạn mình báo sẽ cố thu xếp trở về cố hương thăm nhà. “Rồi bạn kể ra một dọc những cảnh moi từ ký ức cũ, nào là những tàn cây trứng cá đằng góc sân, hàng điệp đỏ gie mình ra mé nước che cái bến, mấy chiếc xuồng ba lá buộc dập dềnh vào chân cầu” (tr. 123) Bạn xa xứ vậy mà đã 12 năm rồi. Mười hai năm đã trôi qua, biết bao là vật đổi sao dời trên cái xứ sở nát tan này. Và cũng biết bao là đổi thay trong công cuộc vá víu lại đất nước. Vì vậy, khi thấy bạn mình nhắc nhở những cảnh xưa mà bạn còn nhớ, Tư đâm lo ngay ngáy cho bạn mình. “Nhà cũ của bạn tôi nằm đâu? Cái xóm nhỏ nhìn ra sông, đón nắng từ sông, uống gió từ sông đó bây giờ đâu? Thở dài. Những ngôi nhà trống huơ, hoang tàn, trơ trơ gạch ngói, cái còn cái đã ngụp một nửa dưới nước...” (tr. 124). Khi thư bạn nhắc lại cảnh cũ người xưa, Tư cũng thầm tiếc và ước ao mình có được phép mầu để dựng lại ngôi nhà cũ, trồng lại hàng điệp đỏ, trồng lại cây trứng cá lá mềm năm xưa, và còn nhiều thứ khác nữa... Nhưng rồi Tư bỗng giựt mình chợt nghĩ lại. “Tỷ dụ như tôi làm được những điều phi thường ấy thì bạn của tôi ơi, cái hồn quê, hồn đất năm xưa đã không còn. Mà tánh bạn cũng như tôi, khăng khăng hoài: “Hoa nào đẹp bằng hoa tuổi nhỏ, Ổi nào ngon bằng ổi năm xưa”. Kỷ niệm của những ngày tuổi trẻ vô giá” (tr. 128). Chẳng những vô giá mà lại còn hết sức cần thiết nữa. Ôm vào lòng mình kỷ niệm dĩ vãng (và ôm luôn cả hy vọng tương lai) như cái phao nổi, hầu giữ cho mũi mình còn lé đé trên mặt nước trong hiện tại để mà thở. Cũng được! Cũng tốt thôi!
May mắn thay! Trong lúc Tư còn lặn hụp chới với giữa dòng kỷ niệm ngoài khơi thì còn có được một người đứng trụ hai chưn rất vững trên đất liền để mà... lạc quan. Phải! Có thiệt. Và Tư đã gặp con người lạc quan đó: nhỏ Bèo! “Má ơi! Con quạ nó đứng chuồng heo, Nó kêu bớ má bánh bèo chín chưa?” “Chín rồi! Đừng có kêu nữa, coi chừng tắt tiếng!” Bèo! Một nhỏ bạn lâu quá chừng không được giáp mặt. Mà giáp mặt rồi thì sao? “Bèo rối rít mời tới nhà chơi, mà, cái giọng của con bạn, trời ơi, nó tươi rói, giòn tan, sung sướng, tự hào (...) Rồi nó cười hực hỡ, rạng rỡ, như thể nhà nó là một thiên đường“ (tr. 60) Một thiên đường! Thiệt sao? Cái nhà của con nhỏ đó ra làm sao mà nó le lói quá cỡ thợ mộc vậy? “Ai dè nhà nó nằm tuốt trong con hẻm Cỏ sau lưng siêu thị. Đó là một con hẻm dài, hẹp te, tối tăm, sình bùn ọp ẹp, ngoa ngoắt (...) điệu này, tới cuối hẻm, chắc nhà chỉ còn bằng cái miễu Ông Tà” (tr. 60) “Hoàng hôn dần xuống, tiếng chuông chiều dần dần vẳng xa, em Bèo xanh lướt nhẹ gót hồng từ từ trôi sâu vào hẻm Cỏ tím, để rơi lại sau lưng mình một mùi hương vương vấn của cỏ nội hoa đồng...” Tuyệt! Thơ mộng ngất ngư. Lãng mạn thấu trời! Vậy mà chê con người ta là chê ra làm sao? Còn cái nhà của cô nó hoành tráng tới mức nào mà dám chê nhà con người ta một cách không có cơ sở và dấu ấn gì hết trọi vậy? “Nhà tôi nằm ngang chợ phường, quay lưng với sông, ngửa mặt đón bụi đường, trong nhà không lúc nào ngớt tiếng xe, tàu chạy (tôi ngồi viết văn ở đó, giữa tiếng động chói gắt khủng khiếp của tàu xe, tiếng nhạc nhùng nhằng từ xe kẹo kéo, tiếng những người đàn bà bên chợ cá cự cãi nhau)” (tr. 61/62). Có vậy thôi à? Vậy mà cứ tưởng đâu nhà cô là một thiên đường vô cùng cao cấp, đáp đúng tiêu chuẩn ISO và đầy đủ hết mọi chất lượng quốc tế chớ. Làm con người ta hết hồn, thiếu chút nữa té lăn cù dưới đất!
Con nhỏ Bèo có lời tha thiết như vậy, nhưng khi lò dò quanh co, quẹo mặt quẹo trái cho tới hết cái hẻm Cỏ để bước vô được thiên đường của con nhỏ Bèo rồi thì thấy nó ra làm sao? “Mái lợp bằng lá cũ mèm, ngửa cổ đã thấy lấp lánh trời sao. Nước bưng ra để cái cộp, khách chưa kịp uống lá mục đã rớt vào, nên nước nghe thơm mùi lá lắm” (tr. 61) “Hà! Cái lầy mời chế dẩm xà há!” Tuy nhiên, biết đâu nhờ uống được nước trà có pha mùi lá lợp nhà thâm niên của nhỏ Bèo mà Tư ngộ được thiền và ngộ được luôn cái “Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc” của người xưa? “Tôi tới chơi một lần tự dưng buồn, nghe thất vọng quá trời đất, nghe trong lòng có một chút ghen hờn. Con Bèo học hành lở dở, nghề nghiệp cũng chẳng cao sang, sao nó lại ngộ chữ “tri túc”, còn mình thì không?” (tr. 61) Phải nói “chưa” thì đúng hơn là “không”. Cần phải kiên cường học tập cách mạng thêm nhiều hơn nữa, cần phải khởi nghĩa thêm nhiều bận nữa, may ra. Bởi lẽ, “biết đủ thì là đủ”, chớ biết tới mức nào mới là đủ bây giờ? Rồi nghĩ tới nghĩ lui gần nát óc, Tư mới gẫm ra: “Tôi chân thành cảm ơn những cuộc đi xa, nó làm cho tôi biết nhớ nhà, ờ, miễn là nhà-của-mình, thôi thì, sao cũng được” (tr. 63). Trong thâm tâm mỗi người, ai cũng thiết tha có được Một mái nhà. Là cái chắc!
Bước ra đường gặp con nhỏ Bèo lúc nào cũng tích cực lạc quan và lúc nào cũng sẵn sàng cất tiếng cười tươi rói thì sức mấy mà buồn nổi! Mà Tư cũng hên lắm nghe. Ngoài con nhỏ Bèo vui vẻ kinh niên ra, Tư còn có thêm được Một người bạn không biết viết văn. Và cũng không bao giờ biết buồn luôn: Nguyệt! Bữa Tư đang uốn tóc ở tiệm cạnh nhà, cái đầu chơm bơm, tóc tai cuốn từng cuốn như chả giò thì bà tiên Nguyệt thình lình giáng thế. Bất ngờ gặp nhau, mừng thôi hết biết. Khi Tư “thành thật khai báo với cách mạng” là mình làm nghề viết văn, Nguyệt “à” lên một tiếng cảm thông rồi chia sẻ nỗi niềm với Tư bằng một cái giọng hết sức là tội nghiệp xót xa: “Vậy à, ờ, ráng đi, ai biểu hồi nhỏ mầy giỏi văn làm chi”. Lời của nó thiết tha đến nỗi làm tôi tin rằng mình tội nghiệp thiệt, thấy thương quá đi. Người không viết văn sướng hơn mình nhiều” (tr. 52) Vậy à? Nguyệt tỏ vẻ chê cái nghề viết văn, còn nó, nó có làm được chuyện gì “khá” không? “Nó giỏi giang, chu đáo, làm việc nào ra việc ấy (chắc là vì không biết viết văn như tôi?). Nấu món nào chồng cũng thích, bạn bè chồng tới nhà hai năm sau còn nhắc bữa ăn cá lóc luộc mẻ nghe ngon tới bây giờ” (tr. 52). Được lắm. Nấu nướng như vậy rất là đáng khen. Nhưng về mặt nghệ thuật, cái sở thích, cái “gu” của nó có “siêu” lắm không? “Nó nói nó không thích phim Mỹ, khó hiểu lắm, hổng giống phim Đài loan, coi lần nào cũng khóc muốn chết” (tr. 53)
Tới nhà bạn chơi, đưa mắt ngó lên cái kệ sách lèo hèo thấy không có quyển nào mang tên tác giả Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn “nhớn” bèn hỏi chớ bạn ta đọc sách gì? “Nguyệt kể ra nào là “Tình như mây khói”, “Yêu mãi người ơi”, “Mai em theo chồng”... loại sách vừa dễ hiểu vừa có chữ bự coi không mỏi mắt” (tr. 55). Dĩ nhiên! Tại sao phải kiếm chuyện khó mà làm? Tại sao phải kiếm chữ nhỏ mà đọc cho lòi con mắt? Rồi than mệt. Mệt cầm canh!
Nguyệt kiếm cách gặp gỡ bạn bè lu bù. Còn Tư thì bận viết văn (làm đại sự!) Khi bận viết thì đành gác chuyện đi chơi với bạn qua một bên. Khi rảnh rang tìm bạn để chơi và để nhậu (dô! dô!) thì chẳng có ma nào. Buồn năm phút! Và trong một phút hoang mang, nàng chợt ớn lạnh rùng mình ba cái rồi lắng nghe cô đơn chầm chậm lấn vô cái tâm hồn tội nghiệp nhỏ bé bằng cỡ bàn tay năm ngón của mình. “Nguyệt thì chẳng bao giờ cô đơn như thế. Nó để dành cả một tâm hồn không vướng bận để quan tâm, chia sẻ, chu toàn hết thảy chuyện lặt vặt của cuộc đời. Còn tôi...” (tr. 56) Còn tôi thì sao? Bộ tính xuống vọng cổ sao đây cô Tư? Nói trước đi cho người ta hờm sẵn để mà phựt đèn màu đúng bon cho nó ăn rập. “Còn ta... Ta phải chịu bấy nhiêu điều đau khổ cay đắng như dày vò như cấu xé cho tan nát mảnh tơ (ơơờ)... lòng!” (Phựt đèn!) Ủa, bộ tưởng vậy mà hổng phải vậy hả? “Còn tôi thì đang đứng trên biển văn chương mênh mang chưa thấy đâu là bờ bến, đường đời cũng dở sống dở chín, chưa đâu tới đâu, hai vai không trọn vai nào” (tr. 56) “Chưa thấy đâu là bờ bến”? Bộ bỏ quên ống dòm ở nhà rồi hả Tư? Mà cũng nên coi chừng và bảo trọng lấy thân mình nghe Tư. Cứ đứng hoài trên biển văn chương thì bảo đảm sẽ bị dính mực tèm lem. Và hơn nữa sẽ còn bị ướt hết quần áo rồi cảm lạnh, ách xì nhảy mũi um sùm đó nghe.
Khi làm cái nghề đi biển hết sức phiêu lưu, thỉnh thoảng Tư cũng kiếm người thân để trút bớt bầu tâm sự, xả bớt ra một đôi lời cho nó nhẹ nhàng... (quá trời mây!) Đó là Lời cho má của Tư. Thỉnh thoảng về quê thăm má, Tư than thở “làm cái nghề viết văn cô độc, cực khổ quá má ơi”, má tôi lặng lẽ buồn hiu. Buồn vì không hiểu văn chương, không thể dìu dắt, nâng đỡ tôi trên con đường nhọc nhằn đó, nhưng má không hay rằng má giúp tôi nhiều lắm” (tr. 155) Tư hằng tin như vậy. Và sẽ vẫn còn vững tin như vậy nữa, tin triền miên, tin dài dài, lòng tin không hề hao hớt đi theo ngày tháng. Tư luôn luôn tin rằng “Vẫn còn những ngày dài phía trước, mai tôi sẽ về thưa với má, dù tôi nói câu này hơi trễ tràng nhưng có còn hơn không, rằng chưa có bao giờ má tôi dạy tôi viết văn, nhưng những gì tôi viết ra đều mang hơi thở cuộc sống mà má trao tặng” (tr. 158).
Ai cũng có một bà mẹ để mà ôm ấp, để mà thương, để mà nhớ. Đối với tôi, tiếng “má” gợi hình ảnh những “bà già quê hương”, những bà già có làn da nhăn nheo thơm tho mùi đất, có bàn chân nứt nẻ phù sa, có trái tim từ bi vô lượng, trái tim đó đã bơm máu vào cuống rún tôi từ lúc tôi còn nhỏ xíu, lớn chưa bằng đầu ngón tay. Má tôi là một trong những bà già quê hương đó.
Nắng Hậu giang mưa Tiền giang
Nắng mưa mưa nắng chín mùa màng
Vòm cao tre trúc nghiêng nghiêng bóng
Trâu nghé lim dim núp nắng chang
Đối với tôi thì là vậy. Nhưng đối với Tư, tiếng má gợi lên hình ảnh gì? “Má tôi là nông dân, suốt quãng thời gian cầm bút, mỗi khi tôi viết về người nông dân tôi lại nghĩ tới má. Trong tôi hiện lên một khuôn mặt sạm đen nửa đêm thao thức, nghe gió về lo lúa đang trổ ngoài đồng bị lép hạt” (tr. 154). Mà đâu phải chỉ có lo suông vậy thôi. Má làm quần quật cả ngày. Làm từ sáng sớm tới trưa, từ trưa tới chiều, từ chiều tới sẫm tối. Có khi ban đêm cũng làm luôn. Làm ruộng, trồng rau, tưới rẫy, làm giàn cho dưa leo, mướp, đậu rồng, xới đất, lên giồng, xách nước... Bấy nhiêu công việc đó theo ngày tháng đã dần dần biến hai bàn tay má trở thành “cục mịch, với những đốt xương thô mà sàng gạo như múa trong trưa vắng (...) Kẽ tay má đầy những mảng nước ăn, đau nhức tới từng đốt xương sao má không than hả má?” (tr. 154/155). Đã là dân quê mà lại còn làm ruộng thì tới mùa cày cấy, má phải lội bùn, lội nước vô cùng vất vả. Lội năm này qua tháng nọ. “Đôi chân ấy từ mười tuổi đã biết khóc. Chân má ngắn, ngón ngắn, chỉ rộng bề ngang nên nhìn nó to bè bè” (tr. 182). Ngó thấy bàn chưn má sần sùi nứt nẻ Tư cũng xót ruột lắm. Thỉnh thoảng Tư bỏ ra chút thơì giờ để chăm sóc cho má. “Lâu lâu, như buổi tối nay, tôi nơ chân má lên cắt móng cho má, lại thấy móng dày thêm sớ, phèn che bít cái phần hột gạo đục ở trong, vàng hoe hoe vàng. Dưới gan bàn chân, chai nhiều chỗ, phía gót thì nứt nẻ như đồng khô mùa hạn. Gió trở bấc, chỗ nứt tứa máu, lại nứt sâu hơn” (tr. 182/183). Hồi nhỏ, tôi không để ý coi bàn chưn má tôi ra làm sao, nó có trần ai như vậy không. Chớ bàn tay đục đẽo của ba tôi thì ly kỳ lắm! Ô dề kịch cợm thì chẳng nói gì. Đằng này, móng tay của ba tôi nó dày mo, không có kềm đục nào mà cắt cho nổi. Chỉ còn nước lấy cưa thợ mộc ra mà cưa vòng vòng – như người ta cưa sừng nai vậy đó. Mạt cưa và móng tay rớt ra cả đống. Chịu thua ông già!
Quanh năm suốt tháng loay hoay với lúa gạo nên má Tư gắn bó cả cuộc đời mình vào cây lúa. Theo má tin, “lúa có linh hồn. Không biết má trao cho đám lúa còn non nớt kia bao nhiêu tình thương yêu, bao nhiêu hy vọng (...) Bà có tình thương yêu ruột ràng vào cây lúa, bà tin tưởng mạnh mẽ vào kinh nghiệm nắng sương mấy mươi mùa ròng rã của mình. Để coi, tính mùa này nữa, má tôi làm ruộng suốt 38 năm” (tr. 180). Ba mươi tám năm má gieo mạ, má trồng lúa, má chăm sóc lúa, má gặt lúa, má gánh lúa, má đập lúa, má tải lúa... Cực quá là cực! Bởi lẽ đó mà suốt nhiều năm qua, má chỉ mơ ước có mỗi một cái máy vừa gặt lúa vừa đập lúa. “Khi mà đồng đất đã biền biệt bóng trâu, bạn chịu khó đẩy xuồng trên ruộng cạn, tải từng bó lúa như ba má tôi dưới nắng hè. Má tôi đã bao nhiêu năm rồi đẩy vơi vơi trời biển” (tr. 181). Làm nông dân cả một đời cực khổ, má sống chết với ruộng, với lúa, với từng hột gạo. Bởi lẽ đó, khi nghe ông Y thâm lạm chục ngoài tỉ, má buồn khủng hoảng luôn. “Quen nết nông dân, bà tính, được số tiền đó bà phải làm ruộng chắt mót suốt... đời. Lúa rẻ rề, một giạ vài chục ngàn, mấy ông “ở trển” làm mất tính ra hàng tỉ tỉ giạ chớ ít đâu” (tr. 183). Hàng tỉ tỉ giạ bị thất thoát! Còn ai bụng dạ nào mà tiếp tục sống chết nhọc nhằn với lúa, tiếp tục nghèo xơ nghèo xác, tiếp tục lặn lội năm này qua năm khác, mùa này qua mùa khác, rốt cuộc nghèo vẫn hoàn nghèo.
Nhưng má chỉ nhọc nhằn có một mình ên má thôi sao? May mắn thay, má có một đứa con gái chí hiếu và đảm đang số một. Tư đã từng sát cánh theo má lặn lội vất vả, khổ “cực trần ai khoai củ” trên khắp các kinh rạch, để đi bán gạo bằng xuồng. Có khi kinh rút nước, lạch cạn teo chỉ còn lại bùn. Vô phương bơi xuồng. Bèn nghĩ ra cách tải gạo tải cám bằng xe đạp. Tư rành cái vụ này lắm! Đủ thứ sáng kiến. Nhưng “ai khen tôi giỏi lòng má tôi cũng đau, vì đã để tôi dang dở con đường học tập”“ (tr. 157). Rồi có lần Tư theo má đi mua so đũa về để bán lại ngoài chợ quê, cũng vẫn bằng xuồng. Khi về xuồng phải vượt qua một con đập. Nhằm lúc mưa nhiều, đập xả nước kinh tràn ra như thác, lăm le nhận chìm chiếc xuồng khẳm lừ. “Má chống chỏi đằng lái, tôi nhảy ào xuống nước nắm mũi xuồng kéo đi, qua đập, ướt như con chuột, má khen tôi giỏi mà sao nước mắt má rươm rướm vậy?” (tr. 156).
Thấy người ta đi theo chủ trương chuyển dịch sản xuất, nuôi tôm kiếm được nhiều tiền quá, má cũng muốn chuyển sang nghề nuôi tôm để thử thời vận. Nhưng rồi “bão tôm” thổi tới, tôm chết như rạ. Tuy nhiên, má cũng vẫn cứ thử nữa. Thử nữa, năm này qua năm khác, và Chờ đợi những mùa tôm tới. Bởi lẽ “Má và con tin rằng, dù lần lữa rồi thì những mùa tôm sẽ tới. Nó sẽ tới để thay đổi số phận, cuộc đời mỗi người (...) Những con người lam lũ cực nhọc cả đời xứng đáng được trả côn” (tr. 122). Với tấm lòng ngay thẳng quê mùa chất phác suốt cả đời mình, má luôn luôn hằng tin như vậy. Vái trời cho niềm tin của má trở thành sự thật trong tương lai. Một tương lai thiệt gần, trong lúc má hãy còn sống. Còn sống để cho con kịp về thăm.
Con cũng muốn về thăm lại má
Thăm dòng sông Hậu nắng lưa thưa
Có cây dừa lão thân gầy quá
Đứng khóc theo mùa con nước đưa... [3]
Cám ơn Tư đã ân cần dẫn dắt tôi về thăm lại miền đất Hậu giang, nơi Tư và tôi đã sinh ra và lớn lên một thời. Cám ơn Tư đã đưa tôi tới thăm Ngọn đèn không tắt ở cái Xóm Rạch nhỏ nhít, đưa tôi đi đón Giao thừa trong một chợ tết còn ngổn ngang dưa hấu và hoa xuân. Tư cũng đã dắt tôi lội bộ rã chưn băng qua Cánh đồng bất tận. Và cuối cùng Tư đã đưa tôi tới gặp gỡ bà con mình trong Tạp văn để thấu hiểu và cùng chia sẻ những nhọc nhằn, những khó khăn mà người nông dân tay lấm chân bùn phải đối đầu trong cuộc vật lộn với những bất trắc của thời tiết, của đời sống, của mưa gió từng mùa, từng năm, từng tháng, từng ngày. Đi với Tư trong chuyến viễn du, tôi cũng đã có dịp khám phá lại những trận nắng Tiền giang rát da, và những cơn mưa Hậu giang rượi mát. Cám ơn Tư, cám ơn Tư.
Trong cuộc hành trình này, tôi chợt nhận ra giữa Tư và tôi có nhiều điểm tương đồng. Tư thương loài vật, tôi cũng thương loài vật. Tư có vịt xiêm Cộc, con vịt mù, và chim bìm bịp. Tôi có vịt xiêm Đại bàng, em vịt vàng nhỏ và một con chim sáo rất khôn, lần nào cũng bay xuống đậu lên vai lúc tôi đi học về. Tư có bà mẹ quê với bộ mặt sạm đen và bàn chưn chai nứt. Tôi có bà già quê hương với nụ cười tre trúc và bàn chưn nứt nẻ phù sa. Và còn nhiều thứ nữa, như viết văn, như lo chuyện trên trời dưới đất, như nhớ sông nhớ nước, như thương cây mắm tiếc cây bần chẳng hạn. Không thấy Tư nói về những mối tình đầu hay tình cuối của mình. Còn tôi, tôi có Hoa, nụ hôn đầu tiên bên bờ sông Định tường. Tôi có Tuyết, người tình quán nước Tiền giang thuở học trò, người con gái đã cùng tôi chia sẻ những nhục cảm đầu đời, hoan mê, chết giấc.
Nhờ Tư, thình lình tôi sực nhớ lại hết những người đã ân cần dìu dắt tôi đi suốt một quãng đường dài đầy bất ngờ, cho tôi nhận ra rằng, dù tôi có vấp ngã nhiều lần, cuộc đời này vẫn hết sức vồn vã, hết sức nồng nàn, hết sức đẹp đẽ. Những người thân, những cô gái đã cùng tôi chia sẻ một thời những cuộc tình hừng hực, những mái nhà ấm cúng, những bữa cơm đạm bạc, những vui buồn lớn nhỏ, giờ đây đã nằm sâu trong lòng đất. Lần nào về thăm quê hương, tôi cũng cố lặn lội đường sá trắc trở để được tới quỳ lạy và thắp một nén nhang tưởng niệm trên mộ ba má mình. Nhưng mộ của Tuyết, tôi không biết nó nằm nơi nào, và cũng chưa hề một lần tới thăm. Trải qua biết bao cuộc binh đao ngụt trời lửa sắt, biết bao cuộc tang thương vật đổi sao dời, ngôi mộ vùi chôn thân thể dấu yêu một thời ôm ấp, giờ đây chắc chỉ còn là một nấm đất mòn lạng hoang tàn...
Mưa Hậu giang nắng Tiền giang
Nhiều đêm không ngủ dạ mơ màng
Nhớ người nhớ đất mùi quê cũ
Ôi nắng Tiền giang mưa Hậu giang!
Bagnolet, ngọai ô Paris
Tháng mười 2007
Kiệt Tấn
[1] thơ Huy Cận
[2] thơ Tú Xương
[3] thơ Lâm Hảo Dũng
Lời “đề từ” trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Phạm Phú Phong
Đại học Huế
1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001... Nhưng quả là đến cuộc “Đối thoại...” chị trở thành một hiện tượng văn học đáng chú ý, một sự kiện văn học hy hữu trong lịch sử văn học nước ta, thể hiện tinh thần dân chủ hoá của thời kỳ đổi mới và hết sức tập trung, đến mức chỉ trong một thời gian ngắn, báo Tuổi trẻ đã nhận được 868 ý kiến gửi về tham gia diễn đàn, trong đó có 855 ý kiến khen và chỉ có 13 ý kiến chê.
Nhìn chung, cả khen và chê tác phẩm Cánh đồng bất tận đều theo tư duy kiểu cũ, đều lấy hiện thực đời sống làm thước đo, làm tiêu chuẩn để đánh giá tác phẩm. Người chê, phản đối tác phẩm thì cho rằng những chi tiết, nhân vật, vấn đề trong tác phẩm đều không thể có trong hiện thực đời sống, chủ yếu đó là ý kiến của những người làm công tác chính trị.
Ở phía đa số, những người khen Nguyễn Ngọc Tư cũng lấy hiện thực đời sống làm tấm gương phản chiếu, bởi “đó là sự chân thực, đôn hậu, trong sáng toả ra từ những gì cô viết”.[1]
Sự khen-chê đều xoay quanh vấn đề nội dung, vấn đề hiện thực và hư cấu, mà không căn cứ vào văn bản ngôn từ để lý giải vì sao, bằng quan niệm nào mà tác giả viết như thế và cách viết ấy tạo được hiệu ứng thẩm mỹ như thế nào? Một trong những đặc điểm nghệ thuật nổi bật của Nguyễn Ngọc Tư, thu hút đông đảo người đọc, đó chính là những yếu tố nằm ngoài cốt truyện, mà chủ yếu là những yếu tố thuộc về thi pháp hình thức độc đáo như cách đặt tên tác phẩm, tên nhân vật, lời đề từ, đề tặng, những đoạn trữ tình ngoại đề, hình thức trình bày tác phẩm,... Ở đây, tôi chỉ xin khảo sát một trong những yếu tố đó (chủ yếu là thông qua Cánh đồng bất tận), là lời đề từ trong tác phẩm văn xuôi.
2. Lời đề từ là “thành phần nằm ngoài văn bản tác phẩm, được viết ở đầu sách hoặc sau tiêu đề mỗi chương trong cuốn sách nhằm hướng người đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả hoặc tư tưởng của tác phẩm”.[2] Các tác phẩm trữ tình hay sử dụng lời đề từ cho cả tập sách, như lời đề từ cho Nhật ký trong tù là bài thơ in ở bìa sách:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao
Có thể nói, đó là cảm hứng chủ đạo của toàn bộ tập thơ, thể hiện tư tưởng - chủ đề của tác phẩm, là người tù - người tự do. Các bài thơ trong tập, dù nhiều bài không nhắc đến tự do, nhưng vẫn cứ bàng bạc tư tưởng ấy trong toàn bộ tác phẩm. Các tác phẩm nghiên cứu phê bình, thường sử dụng lời đề từ cho mỗi chương như Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Phan Cảnh, Chân trời có người bay của Đỗ Lai Thuý... Nguyễn Ngọc Tư là một trong số người hiếm hoi sử dụng lời đề từ cho văn xuôi tự sự. “Trong tập tản văn Sống chậm thời @ một nửa là của chị và tác phẩm nào chị cũng đưa ra lời đề từ như dấu ấn sâu đậm khắc ghi trong lòng độc giả và đó dường như cũng là nỗi day dứt lớn nhất trong chị”.[3] Cánh đồng bất tận gồm 14 truyện, thì có 11 truyện được tác giả sử dụng lời đề từ. Theo cách trình bày, do yêu cầu các truyện đều phải bắt đầu từ trang lẻ, trong khi đó ba truyện Thương quá rau răm, Huệ lấy chồng, Dòng nhớ các truyện đặt trước đều kết thúc bằng các số trang chẵn, không có trang trống nên không có lời đề từ. Thực ra, tác giả hoàn toàn có cách trình bày khác, đồng thời khi đọc lời đề từ của các truyện còn lại mới thấy hết giá trị nội dung của tác phẩm. Ở đây, lời đề từ có thể là một danh ngôn, một đoạn trích từ kinh Phật, một câu hát dân gian, hoặc đôi khi chỉ là một ý nghĩ bâng quơ, nêu một sở thích ngộ nghĩnh, hoặc một đoạn tự sự tồn tại song song với truyện... nhưng tất cả đều có thể vận vào, đều thể hiện chiều sâu của tư tưởng, là một phần bổ sung không thể thiếu cho văn bản tác phẩm, góp phần tạo nên sự toàn vẹn của chỉnh thể, thực chất là một bộ phận của chỉnh thể tác phẩm, thể hiện ý đồ sáng tạo của tác giả và tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm, cần phải được lưu ý xem xét, nếu bỏ qua, hoặc bỏ sót sẽ không khám phá hết giá trị nội dung của tác phẩm.
Truyện Cải ơi! có lời đề từ sau: “Mỗi lần nghe câu hát “Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại...”, tôi hơi quạu, ông bà mình quá hiền lành đi, thí dụ có bị phụ phàng, thì cũng có chanh chua, hằn học một tí. “Gió đưa thằng quỷ sứ về thành. Để tôi ở lại chành ành... đắng cay”. Đau, tức vậy mà trách cứ nhẹ hều... Dường như người ta vẫn yêu, đến mức không thể giận dỗi, nặng lời. Và mình thì chưa bao giờ yêu ai đến như vậy ?!!!”.[4] Đó là nỗi oan của ông già Năm Nhỏ, bỏ nhà đi tìm đứa con riêng của vợ, tên là Cải. Từ năm mười ba tuổi, khi đi chăn trâu, vì ham chơi đôi trâu lạc mất, Cải sợ bị đòn không dám về nhà, ông già Năm bị vợ và bà con lối xóm nghi là đã xua đuổi, thậm chí đánh chết Cải rồi vùi xác ở đâu đó. Hơn mười hai năm ông đi tìm, ông xin làm chân sai vặt cho đoàn ca múa nhạc, để trước giờ biểu diễn, ông lên thông báo tìm con: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con”; rồi ông đẩy xe kẹo kéo đi bán, cố tình vi phạm pháp luật như lấn chiếm lòng lề đường để bị phạt, ăn trộm trâu để bị bắt, được đưa lên ti vi, cũng chỉ để được gọi hai tiếng “Cải ơi...”.
Ở truyện Một trái tim khô, lại được mở đầu dòng tự sự bằng những câu hát sướt mướt để đối lập với hành động phi nhân thuê người giết vợ: “Dạo trước, hồi chưa có phong trào nhạc “Sáng sáng anh uống cà phê. Tối tối anh uống cà phê...” hay “ở bên người ấy xin đừng nhớ đến tôi, ở bên cạnh tôi xin đừng làm khổ tôi...”, mấy chiếc xe kẹo kéo, khoai mì luộc hay mở bản nhạc như vầy “Một trái tim khô, một trái tim mùa đông. Trái tim đã nhiều lần, nhiều lần chạy trốn tình yêu. Suốt đời tôi mãi mãi là người đến sau...”, nghe cũng hay hay / Mà hơi mắc cười, tình yêu, ai cũng khoái, sao cha nội nầy đòi chạy trốn ?!” (tr.144). Đây là truyện có nhiều tình tiết éo le, hấp dẫn như truyện hình sự. Truyện xuất sắc nhất trong tập là truyện ngắn có dung lượng tiểu thuyết Cánh đồng bất tận, vốn ít nhiều thể hiện tư tưởng nhân quả của nhà Phật, chị dẫn ngay kinh Phật làm đề từ: “Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều, vớ được quyển sách nào thì đọc cái ấy. Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc phải “bó tay”. Ví dụ như mấy lời này: “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù chỉ một lời. Hãy yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo VISUDDHÀCÀRAZ). Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới khó làm sao...” (tr. 154).
Ở một truyện khác, truyện Mối tình năm cũ, có lời đề từ ngắn gọn mà sâu sắc: “Chiến tranh, theo tôi hiểu, có nhiều người nhói đau khi nhắc về nó / Những huân chương, huy chương chỉ làm ấm ngực, niềm đau khuất ở một góc lòng, có kẻ nhìn thấy, có người không” (tr.72). Đó là câu chuyện của ông Mười yêu và lấy dì Thấm là vợ liệt sĩ Nguyễn Thọ nổi tiếng trong chiến tranh, vì muốn vợ dứt ra khỏi mối tình năm cũ, ông đã đem bốn mươi chín bức thư tình ra đốt, làm cho đứa con riêng của vợ giận bỏ về nhà ngoại ở, khi đoàn làm phim về liệt sĩ Nguyễn Thọ đến nhà ông không cho vợ tiếp, vì sợ khơi lại chuyện cũ vợ buồn, thế mà mọi người không hiểu, ai cũng trách cứ ông.
Lời đề từ như một ẩn dụ của nội dung câu chuyện. Cũng viết về những số phận sau chiến tranh, trong Biển người mênh mông mỗi người mỗi cảnh ngộ trớ trêu: cha Phi tham gia kháng chiến, mẹ ở nhà bị giặc làm nhục sinh ra Phi, khi cha mẹ đoàn tụ anh trở thành kẻ lạc loài, bỏ học theo đoàn hát, gặp già Sáu Đèo, gần bốn mươi năm đi bán vé số khắp các hang cùng ngõ hẻm, để cố tìm lại người vợ đã bỏ nhà đi, tác giả lại dẫn dắt bằng một lời đề từ khái quát, đau xót hơn, trong nỗi cô đơn đến da diết, riết róng của phận người: “Ngày ngày kẹt giữa đám đông, chen chúc trên những con đường đông nghịt người, nhiều khi tôi giật mình, trời ơi, họ kia, đồng loại mình kia, sao mình lại cô đơn đến rã rời... / Lúc ấy, tôi có một cảm giác kỳ lạ, chỉ mình trên đời này, chỉ một mình... Chẳng ai là tri âm, chẳng ai cả...” (tr.98). Khác với những truyện trước, lời đề từ truyện này như phần mở đầu cho câu chuyện, là một bộ phận của truyện, nếu thiếu nó, truyện mất đi phần mở đầu trong phương thức tự sự của tác giả.
Tương tự, ở Cái nhìn khắc khoải, được mở đầu bằng lời đề từ: “Một ngày khác thường của tuổi hai mươi - tuổi bè bạn, tuổi vui chơi, tôi lùa mười sáu con vịt - một trong những gia tài của má tôi - ra đồng, mưa đầm đìa vào mùa. Tôi thường ngồi ở bờ ruộng, mắt trông chừng bầy vịt, không cho chúng lân la đến những đám mạ muốt xanh, và da diết thèm người, thèm được nói chuyện / Bây giờ, quay quanh tôi bao nhiêu là người, tôi lại thèm cảnh đồng nước vắng tanh...” (tr.48). Những số phận trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư, là những con người sống giữa mọi người, không cô đơn nhưng lại cô độc, con người cá thể với những ý thức cá nhân không được đầy đủ. Một ông lão chăn vịt, trước đã từng tham gia chiến tranh, khi trở về vợ đã bị chết vì đạn pháo, sống một mình giữa bầy vịt, nhặt được một người phụ nữ bị chồng bỏ rơi đưa về chăm sóc, rồi tìm nơi chồng cô ta ở để chỉ đường cho cô ta tìm đến, còn mình chỉ ngoái nhìn theo với cái nhìn khắc khoải. Hầu hết những con người trong truyện đều có đời sống nội tâm phong phú, có lương tâm, có nhân phẩm, sống lặng lẽ, không phô bày tâm trạng.
Cũng là những mối tình thầm lặng, kín đáo, nhưng ở Nhà cổ được diễn đạt theo một hướng khác: “Tôi thích những mối tình câm, tình thầm. Tôi tưởng tượng đó là những mối tình da diết, sâu sắc. Mãi mãi chẳng dám nói thật lòng, cho đến cuối đời, tình ấy vẫn bàng bạc, rập rờn, và mỗi khi có dịp (như đi qua chỗ ngồi cũ, con đường cũ, gương mặt cũ...), ta bỗng thấy nhói ran / Chắc là khó chịu lắm, khi yêu mà giả bộ không yêu, khi buồn cố diễn mặt vui, khi đau tình phải tỏ ra vô tình...” (tr. 62). Đó là mối tình giữa anh em Tứ Hải, Tứ Phương với Thể. Phương nhường Thể cho anh, để suốt đời đau khổ, mà không hề hay biết cô hàng xóm Út Nhỏ cũng thầm yêu...
Nhiều truyện, lời đề từ được dẫn dắt một cách dài dòng, như là một câu chuyện bổ sung, tồn tại song song bên cạnh tác phẩm, vừa góp phần làm nổi bật tư tưởng - chủ đề của tác phẩm, vừa như một đoạn trữ tình ngoại đề thổi vào không gian tâm tưởng của người đọc những day dứt khôn nguôi. Trong 22 chương của tiểu thuyêt Paris 11 tháng 8 của Thuận, tác giả người Việt sống tại Pháp, không có chương nào là không sử dụng lời đề từ, cái ngắn nhất là gần một trang sách, có cái dài hơn ba trang sách, nó tạo nên sự dồn nén thông tin, lần giở từng trang sách, người đọc cảm nhận được cái sức nặng của đời sống hiện đại. Nguyễn Ngọc Tư cũng đã làm được điều ấy trên cái nền của đời sống đồng bằng Nam bộ.
Cuối mùa nhan sắc kể về cuộc đời ông Chín Vũ, xuất thân là “công tử Bạc Liêu”, mê cô đào Hồng, bỏ nhà đi theo gánh hát làm chân kéo màn, giờ về già tập trung về nhà dưỡng lão “Buổi chiều”, đi bán vé số kiếm sống vẫn yêu tha thiết đào Hồng – nay đã trở thành bà lão. Trong khi đó đào Hồng lại yêu và có con với một người khác. Truyện có lời đề từ dài kín cả trang sách, là những ý nghĩ hết sức ngộ nghĩnh buộc người ta phải quan tâm: “Hồi nhỏ tôi có nhiều mơ ước kỳ cục lắm. Thí dụ như lớn lên tôi sẽ làm chủ tịch nước, hay lấy một ông già làm... chồng. Già như ông ngoại tôi vậy. Lúc nào cũng chậm rãi, cũng hiền hiền, cũng trầm lặng, cũng tràn đầy bao dung (một ông chồng giống như vậy đáng mong chờ lắm chớ bộ). “Ảnh hưởng” lớn nhất có lẽ vì ông luôn nhặt mấy cây sậy... giập để đánh khi tôi phạm lỗi, và dành cho tôi những con tép, con cua lớn nhất, trong chén luôn đầy ắp phần nạc của thịt, cá... Tôi nhớ, cứ đôi ba ngày, ông ngoại lại cứ nhấp nhổm cồng cồng trên chiếc xe đạp cũ hiện ra chỗ rẽ vào hàng dâm bụt trước nhà tôi. Ông hiện ra với dáng vẻ của một ông tiên không có phép thuật thần kỳ, nghèo, mắc đoạ. Mồ hôi chảy nhễ nhại trên gương mặt già nua, mồ hôi đầm đìa lưng áo, ông phèo phào vừa thở vừa cười nhìn đám cháu xúm xít lục lọi mớ đồ ăn trong giỏ ra. Những trái vú sữa, khế, mãng cầu... không khi nào còn nguyên vẹn do bị dằn xóc trên đoạn đường gần mười cây số nhưng với đám cháu nghèo, đó là tất cả nỗi vui / Những ước mơ ngày xưa như bong bóng lên trời nhiều khi vì lý do lãng xẹt. Lớn lên tôi nhận ra người già quá... nhăn nheo, không được... đẹp (trong khi có nhiều thằng con trai hấp dẫn, trắng trẻo, thẳng thớm phát mủi lòng) / Cũng tiếc lắm chứ, cái tình đằm thắm, sâu lắng của những người già. Hay là tôi thi vị hoá cuộc sống của họ, lo chiến đấu với tuổi tác, bệnh tật mệt muốn bứt gân, hơi đâu mà yêu iếc...?!” (tr. 84).
Nhớ sông viết về ba bố con ông Chín. Vợ chết đuối ở một đoạn sông, ba cha con suốt năm này qua năm khác gắn bó với sông, thương con ông cho đứa lớn lấy chồng lên bờ, nhưng vẫn cứ nhớ sông, đêm không ngủ được, lời đề từ dàn trải như một câu chuyện thứ hai: “Tôi thường đứng trên Gành Hào, nhìn về chợ nổi, ở đó có thể trông thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chổng lên loang loáng dưới mặt trời / Mỗi chiếc ghe là một ngôi nhà nhỏ, ngang hai mét, dài năm bảy mét. Nhỏ bé, chật hẹp. Nhưng có một cái gì đó thật khác thường, thế giới đó hẹp đến nỗi chỉ vừa để xoay lưng, để nằm co, để cúi người... mà cũng dài cũng rộng vô phương bởi cuộc sống rày đây mai đó, lênh đênh cuối bãi đầu ghềnh / Những chiều tà, chợ nổi đìu hiu bập bềnh đâu hết một vạt áo nắng vàng hoe hoe, đỏ hoe hoe. Những người đàn bà cúi đầu ngó chăm chăm xới nồi cơm dào dạt khói, những người đàn ông xếp bằng ngồi trên mui ghe vấn những điếu thuốc to đùng bằng đầu những ngón chân cái, phì phà nhả khói lên trời. Những đứa trẻ con ngồi tênh hênh trên mũi ghe câu cá chốt, cá mè. Những cô con gái sau một ngày bán hàng mệt mỏi soi mình xuống sông, chải tóc / Họ chắc cũng từng yêu từng vui từng đau, từng nghe phảng phất niềm thương nhớ đất” (tr.112). Có thể coi đây là một đoạn văn miêu tả đầy đủ nhất về sinh hoạt đời sống của người dân buôn bán trên chợ nổi ở Cà Mau.
Duyên phận So Le viết về nhóm tiếp viên nhà hàng một khu du lịch ở đất Mũi, trong đó diễn ra mối tình giữa cô Xuyến và những người đàn ông chợt đến, chợt đi, tác giả đã có dòng tự sự bổ sung: “Tôi mới gặp lại thằng bạn cũ, cái thằng mỗi khi cười làm tim tôi thút thít thòm thèm. Tốn tới bốn năm, ủa, vậy thì bốn năm đó, chúng tôi chẳng rời xa cái thành phố chật chội này, cớ sao không gặp nhau? / Tôi ngồi ngẫm nghĩ mấy giả thuyết (tất nhiên là trong lúc rảnh), có thể, khi tôi tất tả trên con đường này thì thằng bạn lại đi trên con đường khác; tôi đi chợ mua cá nấu cơm, bạn đang nhậu; tôi thức gần trắng đêm để viết lách kiếm cơm, bạn phải ngủ; khi tôi ngược về vùng sâu vùng xa công tác, bạn được sếp cử đi Sài Gòn... Kẻ xuôi người ngược. Nhưng tôi nghĩ, cũng không loại trừ chúng tôi từng bị mắc trong một vụ kẹt xe, có cách nhau chừng năm ba thước cũng vô phương đối mặt. Hay chúng tôi cùng học, ở, thí dụ như học nghị quyết, chắc là tôi ngồi đằng cuối còn thằng bạn ngồi dãy đầu, tôi lên cầu thang bên này bạn xuống cầu thang bên kia... / Về cái sự chúng tôi không gặp (dù thi thoảng cũng nhớ nhau), có quá nhiều giả thuyết. nhưng, nếu quyết lòng, thì có khó khăn gì để gặp nhau, hở trời?!” (tr.134).
Hiu hiu gió bấc tả mối tình của anh Hết và chị Hoài yêu nhau dữ dội mà không lấy được nhau, do mẹ chị Hoài chê anh Hết nghèo. Anh thầm lặng chôn chặt tình yêu trong lòng. Anh có biết đâu bên cạnh anh còn có chị Hảo, thương anh, chờ đợi anh đến thành gái lỡ thì, tác giả đã có lời đề từ: “Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang. Mừng đó rồi bực đó. Sao tôi lại chờ đợi nó, chẳng phải năm nào cũng vậy, lúc cầm cây chổi ra quét sân, đứng trong gió đầm đìa tôi cũng buồn. Trời ơi, gió này là hết năm đây, già thêm một tuổi đây, mình đã kịp sống gì đâu, tay mình vẫn trắng như vầy... Mỗi lần gió về lại cảm giác mình mất một cái gì đó không rõ ràng, không giải thích được, như ai đó đuổi theo đằng sau, tôi gấp rãi nói, gấp rãi cười, gấp rãi khi ngày bắt đầu rụng xuống... / Cuối mùa gió chướng, trời bỗng lạnh hơn, thêm vào một chút buồn, nó kia, gió bấc! Những đám cưới được tôi cho xuất hiện trên cái nền gió nầy, nhưng chỉ là cái cớ cho buồn thấm hơn, sắc lại trên những mối tình dang dở. Chắc tại gió quá dịu dàng, nên có cảm giác gờn gợn buồn, có cảm giác như gió mồ côi, cúi đầu hiu hắt đi giữa đời. Hay tại tôi đã già, đã nhận ra không mùa vui nào là vui trọn. Đến đám cưới vốn là hỷ sự, tôi cũng “gây sự” để nó phải buồn chút chút. Chỉ có đám trẻ con là không biết, nên mới sướng rơn vỗ tay cười hát “Cô dâu chú rể. Làm bể bình bông. Đổ thừa con nít...” Hà hà, thấy vậy mà không phải vậy đâu, mấy cưng...” (tr. 26).
3. Những lời đề từ mà tôi đã dẫn trên, tuy có nhiều cái dài cả gần trang sách, nhưng tôi vẫn phải dẫn nguyên văn, không lược bỏ một câu chữ nào. Bởi vì mỗi cái có một chỉnh thể riêng không thể chia cắt. Nếu tách mỗi cái riêng ra, có cái hoàn toàn có giá trị như một đoản văn, một tác phẩm nghệ thuật độc lập, hoàn chỉnh. Nó có tính tự đầy đủ để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn, thống nhất. Trong lời đề từ Nhà cổ có câu mở đầu đáng chú ý: “Tôi thích những mối tình câm, tình thầm” (tr.62). Đó chính là cảm hứng chủ đạo chi phối toàn bộ cốt truyện, tình huống, xây dựng đời sống nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Tình yêu thầm lặng là tình yêu giữa Phương và Thể, Út Nhỏ và Phương (Nhà cổ) giữa ông Hai và cô Út (Cái nhìn khắc khoải), giữa Huệ và Thi (Huệ lấy chồng), giữa Hảo và Hết (Hiu hiu gió bấc), giữa Nga và Văn (Thương quá rau răm), giữa ông Chín Vũ và đào Hồng (Cuối mùa nhan sắc), giữa Năm Già và Xuyến (Duyên phận So Le) và có ít nhiều bản năng theo kiểu hiện sinh như giữa Điền và chị Sương (Cánh đồng bất tận)... Yêu lặng lẽ. Không cần thổ lộ. Những mối tình âm thầm đơn phương, không cần đáp lại, không cần đi đến kết quả cuối cùng. Yêu để mà yêu. Đó mới thật sự là tình yêu đích thực, bền vững ở cõi nhân gian tạm bợ, lắm đổi thay này.
Phương thức biểu hiện sinh động các yếu tố thi pháp hình thức của Nguyễn Ngọc Tư còn thể hiện ở việc miêu tả thiên nhiên, thời tiết như nắng, mưa, bụi, khói... mà nhất là gió, ở ngay chính các lời đề từ. Trong Cánh đồng bất tận không dưới hai mươi lần chị miêu tả các loại gió: gió bấc, gió chướng, gió thốc, gió lùa, gió cười, gió hiu hiu, gió dịu dàng, gió mồ côi, gió đầm đìa,... Thật ít có tác giả nào phổ vào gió nhiều cung bậc đến như vậy. Ngay trong lời đề từ của truyện mở đầu Cải ơi!, chị cũng mở đầu bằng câu hát cửa miệng của người dân Nam bộ: “Gió đưa cây cải về trời”... (tr. 6); mở đầu cho lời đề từ Hiu hiu gió bấc, chị thổ lộ: “Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang”... Gió thổi xuyên suốt tập sách dày mấy trăm trang của chị (ở các trang 6, 26, 36, 61, 71, 120, 136, 158, 191, 198, 202, 208...). Cái không gian đủ các kiểu gió trên vùng sông nước kênh rạch, đồng ruộng ấy, đậm đặc chất liệu của đời sống đồng bằng Nam bộ, nó thổi vào tâm trạng, vào đời sống nội tâm của những con người có tâm hồn trong như ngọc, chất phác, thánh thiện nhưng cũng hết sức bản năng. Những gì hiện ra trên văn bản, trên ngôn từ mà ta thường gọi là hiển ngôn hữu hạn hơn rất nhiều so với sự hàm ngôn, ở tầng sâu hơn, chị có khả năng mở ra những ngóc ngách tận đáy tâm hồn của con người, trong sự đồng hiện, đồng cảm giữa người đọc và thế giới nhân vật. Một trong những thủ pháp nghệ thuật tạo cho chị thành công, đó chính là việc sử dụng nhuần nhuyễn các lời đề từ. Có lẽ nhờ vậy, mà gần đây Cánh đồng bất tận của chị vừa được dịch giả Ha Jae Hong dịch ra tiếng Hàn, được Nhà xuất bản Châu Á (Asia Publishers) cho ra mắt độc giả Hàn Quốc. Đánh giá về sự kiện này, Thời báo Hàn Quốc (Korea Times) đã có bài viết trang trọng giới thiệu về tác giả và tác phẩm, trong đó có đoạn: “Trở thành một nhà văn có sách bán chạy ở tuổi 31 là một kỳ công để nhiều tác giả khác phải thèm muốn. Nhà văn Việt Nam Nguyễn Ngọc Tư - người đã “độc chiếm” độc giả ở tuổi 31 - không chỉ bán được khoảng tám mươi ngàn bản cho cuốn sách mới nhất, chị còn được giới thiệu như một giọng văn riêng ăn khách ở đất nước mình...”.[5]
Ở nơi nào chị chưa thấu đáo, chưa thật sự chín hay như có người nói còn ít nhiều bị ảnh hưởng trào lưu này trào lưu khác cũng là điều tất yếu. Nhưng với tôi, sau những bậc trưởng bối đã thành danh không thể thay thế ở Nam bộ trước đây như Lý Văn Sâm, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,... nay tôi mới gặp được một tâm thức, một giọng điệu Nam bộ trong thế hệ trẻ là Nguyễn Ngọc Tư. Ở chị có sự đậm đặc của một giọng điệu văn chương Nam bộ, trong đó có những kế thừa thế hệ trước, nhưng lại là giọng điệu của đời sống hiện đại, không trộn lẫn với bất kỳ ai. Đó là điều đáng quí, cần được khẳng định ở Nguyễn Ngọc Tư.
Chú thích
[1] Trần Hữu Dũng: Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam, Diễn Đàn, 2/2004
[2] Lê Bá Hán và ...: Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Văn học, H, 2004, tr.112.
[3] Trần Thị Ái Như: Những yếu tố ngoài cốt truyện trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư, KLTN, Khoá 27, Khoa Ngữ văn, Đại học Khoa học Huế, 2007, tr.47.
[4] Nguyễn Ngọc Tư: Cánh đồng bất tận, Nxb. Trẻ - báo Tuổi trẻ 2005, tr.6 (những chú thích chỉ ghi số trang, đều lấy từ tác phẩm trên).
[5] Dẫn theo báo Tuổi trẻ, ngày 8.10.2007, tr.13.
Đại học Huế
1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001... Nhưng quả là đến cuộc “Đối thoại...” chị trở thành một hiện tượng văn học đáng chú ý, một sự kiện văn học hy hữu trong lịch sử văn học nước ta, thể hiện tinh thần dân chủ hoá của thời kỳ đổi mới và hết sức tập trung, đến mức chỉ trong một thời gian ngắn, báo Tuổi trẻ đã nhận được 868 ý kiến gửi về tham gia diễn đàn, trong đó có 855 ý kiến khen và chỉ có 13 ý kiến chê.
Nhìn chung, cả khen và chê tác phẩm Cánh đồng bất tận đều theo tư duy kiểu cũ, đều lấy hiện thực đời sống làm thước đo, làm tiêu chuẩn để đánh giá tác phẩm. Người chê, phản đối tác phẩm thì cho rằng những chi tiết, nhân vật, vấn đề trong tác phẩm đều không thể có trong hiện thực đời sống, chủ yếu đó là ý kiến của những người làm công tác chính trị.
Ở phía đa số, những người khen Nguyễn Ngọc Tư cũng lấy hiện thực đời sống làm tấm gương phản chiếu, bởi “đó là sự chân thực, đôn hậu, trong sáng toả ra từ những gì cô viết”.[1]
Sự khen-chê đều xoay quanh vấn đề nội dung, vấn đề hiện thực và hư cấu, mà không căn cứ vào văn bản ngôn từ để lý giải vì sao, bằng quan niệm nào mà tác giả viết như thế và cách viết ấy tạo được hiệu ứng thẩm mỹ như thế nào? Một trong những đặc điểm nghệ thuật nổi bật của Nguyễn Ngọc Tư, thu hút đông đảo người đọc, đó chính là những yếu tố nằm ngoài cốt truyện, mà chủ yếu là những yếu tố thuộc về thi pháp hình thức độc đáo như cách đặt tên tác phẩm, tên nhân vật, lời đề từ, đề tặng, những đoạn trữ tình ngoại đề, hình thức trình bày tác phẩm,... Ở đây, tôi chỉ xin khảo sát một trong những yếu tố đó (chủ yếu là thông qua Cánh đồng bất tận), là lời đề từ trong tác phẩm văn xuôi.
2. Lời đề từ là “thành phần nằm ngoài văn bản tác phẩm, được viết ở đầu sách hoặc sau tiêu đề mỗi chương trong cuốn sách nhằm hướng người đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả hoặc tư tưởng của tác phẩm”.[2] Các tác phẩm trữ tình hay sử dụng lời đề từ cho cả tập sách, như lời đề từ cho Nhật ký trong tù là bài thơ in ở bìa sách:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao
Có thể nói, đó là cảm hứng chủ đạo của toàn bộ tập thơ, thể hiện tư tưởng - chủ đề của tác phẩm, là người tù - người tự do. Các bài thơ trong tập, dù nhiều bài không nhắc đến tự do, nhưng vẫn cứ bàng bạc tư tưởng ấy trong toàn bộ tác phẩm. Các tác phẩm nghiên cứu phê bình, thường sử dụng lời đề từ cho mỗi chương như Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Phan Cảnh, Chân trời có người bay của Đỗ Lai Thuý... Nguyễn Ngọc Tư là một trong số người hiếm hoi sử dụng lời đề từ cho văn xuôi tự sự. “Trong tập tản văn Sống chậm thời @ một nửa là của chị và tác phẩm nào chị cũng đưa ra lời đề từ như dấu ấn sâu đậm khắc ghi trong lòng độc giả và đó dường như cũng là nỗi day dứt lớn nhất trong chị”.[3] Cánh đồng bất tận gồm 14 truyện, thì có 11 truyện được tác giả sử dụng lời đề từ. Theo cách trình bày, do yêu cầu các truyện đều phải bắt đầu từ trang lẻ, trong khi đó ba truyện Thương quá rau răm, Huệ lấy chồng, Dòng nhớ các truyện đặt trước đều kết thúc bằng các số trang chẵn, không có trang trống nên không có lời đề từ. Thực ra, tác giả hoàn toàn có cách trình bày khác, đồng thời khi đọc lời đề từ của các truyện còn lại mới thấy hết giá trị nội dung của tác phẩm. Ở đây, lời đề từ có thể là một danh ngôn, một đoạn trích từ kinh Phật, một câu hát dân gian, hoặc đôi khi chỉ là một ý nghĩ bâng quơ, nêu một sở thích ngộ nghĩnh, hoặc một đoạn tự sự tồn tại song song với truyện... nhưng tất cả đều có thể vận vào, đều thể hiện chiều sâu của tư tưởng, là một phần bổ sung không thể thiếu cho văn bản tác phẩm, góp phần tạo nên sự toàn vẹn của chỉnh thể, thực chất là một bộ phận của chỉnh thể tác phẩm, thể hiện ý đồ sáng tạo của tác giả và tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm, cần phải được lưu ý xem xét, nếu bỏ qua, hoặc bỏ sót sẽ không khám phá hết giá trị nội dung của tác phẩm.
Truyện Cải ơi! có lời đề từ sau: “Mỗi lần nghe câu hát “Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại...”, tôi hơi quạu, ông bà mình quá hiền lành đi, thí dụ có bị phụ phàng, thì cũng có chanh chua, hằn học một tí. “Gió đưa thằng quỷ sứ về thành. Để tôi ở lại chành ành... đắng cay”. Đau, tức vậy mà trách cứ nhẹ hều... Dường như người ta vẫn yêu, đến mức không thể giận dỗi, nặng lời. Và mình thì chưa bao giờ yêu ai đến như vậy ?!!!”.[4] Đó là nỗi oan của ông già Năm Nhỏ, bỏ nhà đi tìm đứa con riêng của vợ, tên là Cải. Từ năm mười ba tuổi, khi đi chăn trâu, vì ham chơi đôi trâu lạc mất, Cải sợ bị đòn không dám về nhà, ông già Năm bị vợ và bà con lối xóm nghi là đã xua đuổi, thậm chí đánh chết Cải rồi vùi xác ở đâu đó. Hơn mười hai năm ông đi tìm, ông xin làm chân sai vặt cho đoàn ca múa nhạc, để trước giờ biểu diễn, ông lên thông báo tìm con: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con”; rồi ông đẩy xe kẹo kéo đi bán, cố tình vi phạm pháp luật như lấn chiếm lòng lề đường để bị phạt, ăn trộm trâu để bị bắt, được đưa lên ti vi, cũng chỉ để được gọi hai tiếng “Cải ơi...”.
Ở truyện Một trái tim khô, lại được mở đầu dòng tự sự bằng những câu hát sướt mướt để đối lập với hành động phi nhân thuê người giết vợ: “Dạo trước, hồi chưa có phong trào nhạc “Sáng sáng anh uống cà phê. Tối tối anh uống cà phê...” hay “ở bên người ấy xin đừng nhớ đến tôi, ở bên cạnh tôi xin đừng làm khổ tôi...”, mấy chiếc xe kẹo kéo, khoai mì luộc hay mở bản nhạc như vầy “Một trái tim khô, một trái tim mùa đông. Trái tim đã nhiều lần, nhiều lần chạy trốn tình yêu. Suốt đời tôi mãi mãi là người đến sau...”, nghe cũng hay hay / Mà hơi mắc cười, tình yêu, ai cũng khoái, sao cha nội nầy đòi chạy trốn ?!” (tr.144). Đây là truyện có nhiều tình tiết éo le, hấp dẫn như truyện hình sự. Truyện xuất sắc nhất trong tập là truyện ngắn có dung lượng tiểu thuyết Cánh đồng bất tận, vốn ít nhiều thể hiện tư tưởng nhân quả của nhà Phật, chị dẫn ngay kinh Phật làm đề từ: “Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều, vớ được quyển sách nào thì đọc cái ấy. Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc phải “bó tay”. Ví dụ như mấy lời này: “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù chỉ một lời. Hãy yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo VISUDDHÀCÀRAZ). Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới khó làm sao...” (tr. 154).
Ở một truyện khác, truyện Mối tình năm cũ, có lời đề từ ngắn gọn mà sâu sắc: “Chiến tranh, theo tôi hiểu, có nhiều người nhói đau khi nhắc về nó / Những huân chương, huy chương chỉ làm ấm ngực, niềm đau khuất ở một góc lòng, có kẻ nhìn thấy, có người không” (tr.72). Đó là câu chuyện của ông Mười yêu và lấy dì Thấm là vợ liệt sĩ Nguyễn Thọ nổi tiếng trong chiến tranh, vì muốn vợ dứt ra khỏi mối tình năm cũ, ông đã đem bốn mươi chín bức thư tình ra đốt, làm cho đứa con riêng của vợ giận bỏ về nhà ngoại ở, khi đoàn làm phim về liệt sĩ Nguyễn Thọ đến nhà ông không cho vợ tiếp, vì sợ khơi lại chuyện cũ vợ buồn, thế mà mọi người không hiểu, ai cũng trách cứ ông.
Lời đề từ như một ẩn dụ của nội dung câu chuyện. Cũng viết về những số phận sau chiến tranh, trong Biển người mênh mông mỗi người mỗi cảnh ngộ trớ trêu: cha Phi tham gia kháng chiến, mẹ ở nhà bị giặc làm nhục sinh ra Phi, khi cha mẹ đoàn tụ anh trở thành kẻ lạc loài, bỏ học theo đoàn hát, gặp già Sáu Đèo, gần bốn mươi năm đi bán vé số khắp các hang cùng ngõ hẻm, để cố tìm lại người vợ đã bỏ nhà đi, tác giả lại dẫn dắt bằng một lời đề từ khái quát, đau xót hơn, trong nỗi cô đơn đến da diết, riết róng của phận người: “Ngày ngày kẹt giữa đám đông, chen chúc trên những con đường đông nghịt người, nhiều khi tôi giật mình, trời ơi, họ kia, đồng loại mình kia, sao mình lại cô đơn đến rã rời... / Lúc ấy, tôi có một cảm giác kỳ lạ, chỉ mình trên đời này, chỉ một mình... Chẳng ai là tri âm, chẳng ai cả...” (tr.98). Khác với những truyện trước, lời đề từ truyện này như phần mở đầu cho câu chuyện, là một bộ phận của truyện, nếu thiếu nó, truyện mất đi phần mở đầu trong phương thức tự sự của tác giả.
Tương tự, ở Cái nhìn khắc khoải, được mở đầu bằng lời đề từ: “Một ngày khác thường của tuổi hai mươi - tuổi bè bạn, tuổi vui chơi, tôi lùa mười sáu con vịt - một trong những gia tài của má tôi - ra đồng, mưa đầm đìa vào mùa. Tôi thường ngồi ở bờ ruộng, mắt trông chừng bầy vịt, không cho chúng lân la đến những đám mạ muốt xanh, và da diết thèm người, thèm được nói chuyện / Bây giờ, quay quanh tôi bao nhiêu là người, tôi lại thèm cảnh đồng nước vắng tanh...” (tr.48). Những số phận trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư, là những con người sống giữa mọi người, không cô đơn nhưng lại cô độc, con người cá thể với những ý thức cá nhân không được đầy đủ. Một ông lão chăn vịt, trước đã từng tham gia chiến tranh, khi trở về vợ đã bị chết vì đạn pháo, sống một mình giữa bầy vịt, nhặt được một người phụ nữ bị chồng bỏ rơi đưa về chăm sóc, rồi tìm nơi chồng cô ta ở để chỉ đường cho cô ta tìm đến, còn mình chỉ ngoái nhìn theo với cái nhìn khắc khoải. Hầu hết những con người trong truyện đều có đời sống nội tâm phong phú, có lương tâm, có nhân phẩm, sống lặng lẽ, không phô bày tâm trạng.
Cũng là những mối tình thầm lặng, kín đáo, nhưng ở Nhà cổ được diễn đạt theo một hướng khác: “Tôi thích những mối tình câm, tình thầm. Tôi tưởng tượng đó là những mối tình da diết, sâu sắc. Mãi mãi chẳng dám nói thật lòng, cho đến cuối đời, tình ấy vẫn bàng bạc, rập rờn, và mỗi khi có dịp (như đi qua chỗ ngồi cũ, con đường cũ, gương mặt cũ...), ta bỗng thấy nhói ran / Chắc là khó chịu lắm, khi yêu mà giả bộ không yêu, khi buồn cố diễn mặt vui, khi đau tình phải tỏ ra vô tình...” (tr. 62). Đó là mối tình giữa anh em Tứ Hải, Tứ Phương với Thể. Phương nhường Thể cho anh, để suốt đời đau khổ, mà không hề hay biết cô hàng xóm Út Nhỏ cũng thầm yêu...
Nhiều truyện, lời đề từ được dẫn dắt một cách dài dòng, như là một câu chuyện bổ sung, tồn tại song song bên cạnh tác phẩm, vừa góp phần làm nổi bật tư tưởng - chủ đề của tác phẩm, vừa như một đoạn trữ tình ngoại đề thổi vào không gian tâm tưởng của người đọc những day dứt khôn nguôi. Trong 22 chương của tiểu thuyêt Paris 11 tháng 8 của Thuận, tác giả người Việt sống tại Pháp, không có chương nào là không sử dụng lời đề từ, cái ngắn nhất là gần một trang sách, có cái dài hơn ba trang sách, nó tạo nên sự dồn nén thông tin, lần giở từng trang sách, người đọc cảm nhận được cái sức nặng của đời sống hiện đại. Nguyễn Ngọc Tư cũng đã làm được điều ấy trên cái nền của đời sống đồng bằng Nam bộ.
Cuối mùa nhan sắc kể về cuộc đời ông Chín Vũ, xuất thân là “công tử Bạc Liêu”, mê cô đào Hồng, bỏ nhà đi theo gánh hát làm chân kéo màn, giờ về già tập trung về nhà dưỡng lão “Buổi chiều”, đi bán vé số kiếm sống vẫn yêu tha thiết đào Hồng – nay đã trở thành bà lão. Trong khi đó đào Hồng lại yêu và có con với một người khác. Truyện có lời đề từ dài kín cả trang sách, là những ý nghĩ hết sức ngộ nghĩnh buộc người ta phải quan tâm: “Hồi nhỏ tôi có nhiều mơ ước kỳ cục lắm. Thí dụ như lớn lên tôi sẽ làm chủ tịch nước, hay lấy một ông già làm... chồng. Già như ông ngoại tôi vậy. Lúc nào cũng chậm rãi, cũng hiền hiền, cũng trầm lặng, cũng tràn đầy bao dung (một ông chồng giống như vậy đáng mong chờ lắm chớ bộ). “Ảnh hưởng” lớn nhất có lẽ vì ông luôn nhặt mấy cây sậy... giập để đánh khi tôi phạm lỗi, và dành cho tôi những con tép, con cua lớn nhất, trong chén luôn đầy ắp phần nạc của thịt, cá... Tôi nhớ, cứ đôi ba ngày, ông ngoại lại cứ nhấp nhổm cồng cồng trên chiếc xe đạp cũ hiện ra chỗ rẽ vào hàng dâm bụt trước nhà tôi. Ông hiện ra với dáng vẻ của một ông tiên không có phép thuật thần kỳ, nghèo, mắc đoạ. Mồ hôi chảy nhễ nhại trên gương mặt già nua, mồ hôi đầm đìa lưng áo, ông phèo phào vừa thở vừa cười nhìn đám cháu xúm xít lục lọi mớ đồ ăn trong giỏ ra. Những trái vú sữa, khế, mãng cầu... không khi nào còn nguyên vẹn do bị dằn xóc trên đoạn đường gần mười cây số nhưng với đám cháu nghèo, đó là tất cả nỗi vui / Những ước mơ ngày xưa như bong bóng lên trời nhiều khi vì lý do lãng xẹt. Lớn lên tôi nhận ra người già quá... nhăn nheo, không được... đẹp (trong khi có nhiều thằng con trai hấp dẫn, trắng trẻo, thẳng thớm phát mủi lòng) / Cũng tiếc lắm chứ, cái tình đằm thắm, sâu lắng của những người già. Hay là tôi thi vị hoá cuộc sống của họ, lo chiến đấu với tuổi tác, bệnh tật mệt muốn bứt gân, hơi đâu mà yêu iếc...?!” (tr. 84).
Nhớ sông viết về ba bố con ông Chín. Vợ chết đuối ở một đoạn sông, ba cha con suốt năm này qua năm khác gắn bó với sông, thương con ông cho đứa lớn lấy chồng lên bờ, nhưng vẫn cứ nhớ sông, đêm không ngủ được, lời đề từ dàn trải như một câu chuyện thứ hai: “Tôi thường đứng trên Gành Hào, nhìn về chợ nổi, ở đó có thể trông thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chổng lên loang loáng dưới mặt trời / Mỗi chiếc ghe là một ngôi nhà nhỏ, ngang hai mét, dài năm bảy mét. Nhỏ bé, chật hẹp. Nhưng có một cái gì đó thật khác thường, thế giới đó hẹp đến nỗi chỉ vừa để xoay lưng, để nằm co, để cúi người... mà cũng dài cũng rộng vô phương bởi cuộc sống rày đây mai đó, lênh đênh cuối bãi đầu ghềnh / Những chiều tà, chợ nổi đìu hiu bập bềnh đâu hết một vạt áo nắng vàng hoe hoe, đỏ hoe hoe. Những người đàn bà cúi đầu ngó chăm chăm xới nồi cơm dào dạt khói, những người đàn ông xếp bằng ngồi trên mui ghe vấn những điếu thuốc to đùng bằng đầu những ngón chân cái, phì phà nhả khói lên trời. Những đứa trẻ con ngồi tênh hênh trên mũi ghe câu cá chốt, cá mè. Những cô con gái sau một ngày bán hàng mệt mỏi soi mình xuống sông, chải tóc / Họ chắc cũng từng yêu từng vui từng đau, từng nghe phảng phất niềm thương nhớ đất” (tr.112). Có thể coi đây là một đoạn văn miêu tả đầy đủ nhất về sinh hoạt đời sống của người dân buôn bán trên chợ nổi ở Cà Mau.
Duyên phận So Le viết về nhóm tiếp viên nhà hàng một khu du lịch ở đất Mũi, trong đó diễn ra mối tình giữa cô Xuyến và những người đàn ông chợt đến, chợt đi, tác giả đã có dòng tự sự bổ sung: “Tôi mới gặp lại thằng bạn cũ, cái thằng mỗi khi cười làm tim tôi thút thít thòm thèm. Tốn tới bốn năm, ủa, vậy thì bốn năm đó, chúng tôi chẳng rời xa cái thành phố chật chội này, cớ sao không gặp nhau? / Tôi ngồi ngẫm nghĩ mấy giả thuyết (tất nhiên là trong lúc rảnh), có thể, khi tôi tất tả trên con đường này thì thằng bạn lại đi trên con đường khác; tôi đi chợ mua cá nấu cơm, bạn đang nhậu; tôi thức gần trắng đêm để viết lách kiếm cơm, bạn phải ngủ; khi tôi ngược về vùng sâu vùng xa công tác, bạn được sếp cử đi Sài Gòn... Kẻ xuôi người ngược. Nhưng tôi nghĩ, cũng không loại trừ chúng tôi từng bị mắc trong một vụ kẹt xe, có cách nhau chừng năm ba thước cũng vô phương đối mặt. Hay chúng tôi cùng học, ở, thí dụ như học nghị quyết, chắc là tôi ngồi đằng cuối còn thằng bạn ngồi dãy đầu, tôi lên cầu thang bên này bạn xuống cầu thang bên kia... / Về cái sự chúng tôi không gặp (dù thi thoảng cũng nhớ nhau), có quá nhiều giả thuyết. nhưng, nếu quyết lòng, thì có khó khăn gì để gặp nhau, hở trời?!” (tr.134).
Hiu hiu gió bấc tả mối tình của anh Hết và chị Hoài yêu nhau dữ dội mà không lấy được nhau, do mẹ chị Hoài chê anh Hết nghèo. Anh thầm lặng chôn chặt tình yêu trong lòng. Anh có biết đâu bên cạnh anh còn có chị Hảo, thương anh, chờ đợi anh đến thành gái lỡ thì, tác giả đã có lời đề từ: “Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang. Mừng đó rồi bực đó. Sao tôi lại chờ đợi nó, chẳng phải năm nào cũng vậy, lúc cầm cây chổi ra quét sân, đứng trong gió đầm đìa tôi cũng buồn. Trời ơi, gió này là hết năm đây, già thêm một tuổi đây, mình đã kịp sống gì đâu, tay mình vẫn trắng như vầy... Mỗi lần gió về lại cảm giác mình mất một cái gì đó không rõ ràng, không giải thích được, như ai đó đuổi theo đằng sau, tôi gấp rãi nói, gấp rãi cười, gấp rãi khi ngày bắt đầu rụng xuống... / Cuối mùa gió chướng, trời bỗng lạnh hơn, thêm vào một chút buồn, nó kia, gió bấc! Những đám cưới được tôi cho xuất hiện trên cái nền gió nầy, nhưng chỉ là cái cớ cho buồn thấm hơn, sắc lại trên những mối tình dang dở. Chắc tại gió quá dịu dàng, nên có cảm giác gờn gợn buồn, có cảm giác như gió mồ côi, cúi đầu hiu hắt đi giữa đời. Hay tại tôi đã già, đã nhận ra không mùa vui nào là vui trọn. Đến đám cưới vốn là hỷ sự, tôi cũng “gây sự” để nó phải buồn chút chút. Chỉ có đám trẻ con là không biết, nên mới sướng rơn vỗ tay cười hát “Cô dâu chú rể. Làm bể bình bông. Đổ thừa con nít...” Hà hà, thấy vậy mà không phải vậy đâu, mấy cưng...” (tr. 26).
3. Những lời đề từ mà tôi đã dẫn trên, tuy có nhiều cái dài cả gần trang sách, nhưng tôi vẫn phải dẫn nguyên văn, không lược bỏ một câu chữ nào. Bởi vì mỗi cái có một chỉnh thể riêng không thể chia cắt. Nếu tách mỗi cái riêng ra, có cái hoàn toàn có giá trị như một đoản văn, một tác phẩm nghệ thuật độc lập, hoàn chỉnh. Nó có tính tự đầy đủ để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn, thống nhất. Trong lời đề từ Nhà cổ có câu mở đầu đáng chú ý: “Tôi thích những mối tình câm, tình thầm” (tr.62). Đó chính là cảm hứng chủ đạo chi phối toàn bộ cốt truyện, tình huống, xây dựng đời sống nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Tình yêu thầm lặng là tình yêu giữa Phương và Thể, Út Nhỏ và Phương (Nhà cổ) giữa ông Hai và cô Út (Cái nhìn khắc khoải), giữa Huệ và Thi (Huệ lấy chồng), giữa Hảo và Hết (Hiu hiu gió bấc), giữa Nga và Văn (Thương quá rau răm), giữa ông Chín Vũ và đào Hồng (Cuối mùa nhan sắc), giữa Năm Già và Xuyến (Duyên phận So Le) và có ít nhiều bản năng theo kiểu hiện sinh như giữa Điền và chị Sương (Cánh đồng bất tận)... Yêu lặng lẽ. Không cần thổ lộ. Những mối tình âm thầm đơn phương, không cần đáp lại, không cần đi đến kết quả cuối cùng. Yêu để mà yêu. Đó mới thật sự là tình yêu đích thực, bền vững ở cõi nhân gian tạm bợ, lắm đổi thay này.
Phương thức biểu hiện sinh động các yếu tố thi pháp hình thức của Nguyễn Ngọc Tư còn thể hiện ở việc miêu tả thiên nhiên, thời tiết như nắng, mưa, bụi, khói... mà nhất là gió, ở ngay chính các lời đề từ. Trong Cánh đồng bất tận không dưới hai mươi lần chị miêu tả các loại gió: gió bấc, gió chướng, gió thốc, gió lùa, gió cười, gió hiu hiu, gió dịu dàng, gió mồ côi, gió đầm đìa,... Thật ít có tác giả nào phổ vào gió nhiều cung bậc đến như vậy. Ngay trong lời đề từ của truyện mở đầu Cải ơi!, chị cũng mở đầu bằng câu hát cửa miệng của người dân Nam bộ: “Gió đưa cây cải về trời”... (tr. 6); mở đầu cho lời đề từ Hiu hiu gió bấc, chị thổ lộ: “Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang”... Gió thổi xuyên suốt tập sách dày mấy trăm trang của chị (ở các trang 6, 26, 36, 61, 71, 120, 136, 158, 191, 198, 202, 208...). Cái không gian đủ các kiểu gió trên vùng sông nước kênh rạch, đồng ruộng ấy, đậm đặc chất liệu của đời sống đồng bằng Nam bộ, nó thổi vào tâm trạng, vào đời sống nội tâm của những con người có tâm hồn trong như ngọc, chất phác, thánh thiện nhưng cũng hết sức bản năng. Những gì hiện ra trên văn bản, trên ngôn từ mà ta thường gọi là hiển ngôn hữu hạn hơn rất nhiều so với sự hàm ngôn, ở tầng sâu hơn, chị có khả năng mở ra những ngóc ngách tận đáy tâm hồn của con người, trong sự đồng hiện, đồng cảm giữa người đọc và thế giới nhân vật. Một trong những thủ pháp nghệ thuật tạo cho chị thành công, đó chính là việc sử dụng nhuần nhuyễn các lời đề từ. Có lẽ nhờ vậy, mà gần đây Cánh đồng bất tận của chị vừa được dịch giả Ha Jae Hong dịch ra tiếng Hàn, được Nhà xuất bản Châu Á (Asia Publishers) cho ra mắt độc giả Hàn Quốc. Đánh giá về sự kiện này, Thời báo Hàn Quốc (Korea Times) đã có bài viết trang trọng giới thiệu về tác giả và tác phẩm, trong đó có đoạn: “Trở thành một nhà văn có sách bán chạy ở tuổi 31 là một kỳ công để nhiều tác giả khác phải thèm muốn. Nhà văn Việt Nam Nguyễn Ngọc Tư - người đã “độc chiếm” độc giả ở tuổi 31 - không chỉ bán được khoảng tám mươi ngàn bản cho cuốn sách mới nhất, chị còn được giới thiệu như một giọng văn riêng ăn khách ở đất nước mình...”.[5]
Ở nơi nào chị chưa thấu đáo, chưa thật sự chín hay như có người nói còn ít nhiều bị ảnh hưởng trào lưu này trào lưu khác cũng là điều tất yếu. Nhưng với tôi, sau những bậc trưởng bối đã thành danh không thể thay thế ở Nam bộ trước đây như Lý Văn Sâm, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,... nay tôi mới gặp được một tâm thức, một giọng điệu Nam bộ trong thế hệ trẻ là Nguyễn Ngọc Tư. Ở chị có sự đậm đặc của một giọng điệu văn chương Nam bộ, trong đó có những kế thừa thế hệ trước, nhưng lại là giọng điệu của đời sống hiện đại, không trộn lẫn với bất kỳ ai. Đó là điều đáng quí, cần được khẳng định ở Nguyễn Ngọc Tư.
Chú thích
[1] Trần Hữu Dũng: Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam, Diễn Đàn, 2/2004
[2] Lê Bá Hán và ...: Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Văn học, H, 2004, tr.112.
[3] Trần Thị Ái Như: Những yếu tố ngoài cốt truyện trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư, KLTN, Khoá 27, Khoa Ngữ văn, Đại học Khoa học Huế, 2007, tr.47.
[4] Nguyễn Ngọc Tư: Cánh đồng bất tận, Nxb. Trẻ - báo Tuổi trẻ 2005, tr.6 (những chú thích chỉ ghi số trang, đều lấy từ tác phẩm trên).
[5] Dẫn theo báo Tuổi trẻ, ngày 8.10.2007, tr.13.
Similar topics
» NGUYỄN NGỌC TƯ
» Nhất Nguyên: in băng rôn, in quảng cáo, hình ảnh sắc nét, giá cạnh tranh (35.000đ/1 m)
» Nhất Nguyên: in băng rôn, in quảng cáo, hình ảnh sắc nét, giá cạnh tranh (35.000đ/1 m)
» Về thơ Hàn Mạc Tử
» Nhất Nguyên: in băng rôn, in quảng cáo, hình ảnh sắc nét, giá cạnh tranh (35.000đ/1 m)
» Nhất Nguyên: in băng rôn, in quảng cáo, hình ảnh sắc nét, giá cạnh tranh (35.000đ/1 m)
» Về thơ Hàn Mạc Tử
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
8/4/2013, 7:28 pm by nhokbmt
» Làm thủ tục hải quan – giao nhận XNK giá rẻ
19/9/2012, 3:50 pm by nhokbmt
» Tăng like Facebook, viết app (ứng dụng) Facebook giá rẻ
25/6/2012, 1:38 pm by nhokbmt
» Trường Nhật Ngữ Top Globis Khai Giảng Khóa Mới Vào Tháng 06.2012
15/5/2012, 6:14 pm by nguyentuvi
» Nhất Nguyên: in băng rôn, in quảng cáo, hình ảnh sắc nét, giá cạnh tranh (35.000đ/1 m)
4/3/2012, 9:38 am by nhokbmt
» Nhất Nguyên: in băng rôn, in quảng cáo, hình ảnh sắc nét, giá cạnh tranh (35.000đ/1 m)
28/2/2012, 9:40 am by nhokbmt
» Học tiếng Nhật - Top Globis
25/11/2011, 4:36 pm by nguyentuvi
» Giấy các loại giá rẻ Couche, Dulex, Ivory, …v..v..
22/11/2011, 9:10 am by nhokbmt
» Trải nghiệm xuất gia gieo duyên
23/9/2011, 11:24 pm by HUY_COC